Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024

TẾT NÀY EM CÓ VỀ DẦU TIẾNG? - Đậng Mỷ Duyên



TẾT NÀY EM CÓ VỀ DẦU TIẾNG?

1.Tết này em có về xóm cũ
Coi gió mơn man vạt áo dài
Mái tóc ngày xưa thơm mùi sả
Bây giờ biết còn đẹp như mây?

2.Cái bữa em đi, hồi đó đó
Đưa ta mấy bụm hột hoa vàng
Ta rải trên triền đê ngập gió
Nửa phần tính nói, lại hoang mang

3.Bữa khỏa tay trên làn nước bạc
Tiêu diêu với khói ngả ba. Chiều
Tiếng gió hù hơ trong tiếng sóng
Chợt nhớ in là ta đã yêu.

4.Thì hỏi chơi thôi. Hỏi chơi mà
Em về ta sẽ ghé qua nhà
Thế nào cũng cạn ly đế nếp
Nướng cá, khua thuyền vô đảo xa…

P/s:
5.Vô chi đảo Nhím xa xôi quá
ngồi xéo ngả ba dưới dốc hồ
Xóc miếng cá lăng dằm muối ớt
hớp chung chuối hột... sướng thần sầu!
Đặng Mỹ Duyên

Làm thinh - Ngân Bình

Ông giơ tay gạt cái bao ni lông đựng những chai nước lọc đã trống rỗng xuống đất, thọc mạnh ngón tay vào miệng bao mới toanh nằm phía dưới, kéo lấy một chai nước rồi đứng thẳng người, thong thả bước ra cửa.

Bà lặng lẽ đứng nhìn. “Ai sẽ là người nhặt cái bao ấy cho vào thùng ‘recycle’?”, bà tự hỏi và tự trả lời “thì mụ vợ này chứ ai! ”.

Nỗi bực tức trào lên, bà muốn hét lên bằng giọng “tenor”. Á! á!!!. mà phải cố gắng thở hắt ra, tự vỗ về mình “Hạ xuống! hạ xuống!”, rồi lầm bầm hai chữ “Làm thinh, làm thinh” nhưng trong lòng vẫn tức anh ách, nên…

Bà dừng lại, câu chuyện đang kể bị bỏ lửng. Bạn chăm chú nhìn vào mắt bà, hạ giọng hỏi khẽ như sợ có ai đang rình mò nghe lén.

– Nhưng cuối cùng thì sao, chị có làm được điều Cha dạy không?

– Nếu được thì làm sao có chuyện kể hôm nay. Lãng xẹt!

– Ừ! tôi cũng nghĩ vậy. Chỉ là tại Cha không có gia đình nên mới mạnh dạn dạy mình phải làm như thế, chứ nếu Cha có vợ thử xem Cha có làm được hay không…

– Ậy! ậy!  sao lại nói xấu Cha. Tội chết!

Hai người cười ngặt nghẽo. Câu Cha dạy nằm trong một buổi tĩnh tâm cách đây khá lâu nhưng hai bà thường mang ra nhắc đi, nhắc lại… đến nỗi, cỏ chắc cũng đã mòn dưới bước chân thời gian nhưng miệng mồm hai bà thì cứ hoài trơn tru kể lể.

                 Tranh Bảo Huân

Cách đây hai năm, không biết nghe ngóng từ đâu mà trước ngày tĩnh tâm ba tháng các bà đã truyền tai nhau “Kỳ này có Cha khách đến giảng phòng và Ngài sẽ nói về đề tài ‘Làm sao để giải quyết những mâu thuẫn giữa vợ chồng’. Thế là mỗi lần gặp mặt sau thánh lễ các bà bàn tán, rủ rê nhau sẽ giành hàng ghế đầu để có thể nhìn thấy Cha và nghe giảng rõ ràng. Ðiều quan trọng là phải chuẩn bị câu hỏi để nhờ Cha gỡ rối tơ lòng (kiểu này là mấy ông chồng sẽ không thể chạy tội và gạt ngang, gạt dọc như mọi khi các bà mở miệng than phiền).

Nhà thờ nhỏ, cũ kỹ chỉ có hai trăm ghế nên các bà thường đi lễ sớm để giành chỗ tốt. Chỗ tốt của các bà là những hàng ghế gần cuối nhà thờ. Nhiều lần nhìn thấy phía trên lưa thưa Cha nói mát:

– Không hiểu sao mỗi lúc đi xem ca nhạc, ai cũng thích chọn hàng ghế đầu để nhìn rõ mặt ca sĩ nhưng khi đi nhà thờ để gặp gỡ Chúa thì cứ chui vào hàng ghế chót. Chẳng lẽ, ca sĩ lại “có giá” hơn Chúa à?.

Mọi người cười cái rần trong khi các bà quyết liệt phủ nhận “Không phải! Cha nói oan cho tụi con”. Phải hay không ai biết? chỉ biết một điều là ngày hôm sau và nhiều ngày hôm sau tiếp theo các bà vẫn chọn hàng ghế chót. Thế mà hôm nay các bà cả gan ngồi chễm chệ trên hàng ghế đầu.

Sau khi bài giảng rất hấp dẫn và lôi cuốn của Cha chấm dứt, một ông chức sắc trong nhà thờ thông báo sẽ có ba mươi phút để Cha giải đáp những ưu tư, thắc mắc của giáo dân. Ông vừa dứt lời thì đã có đôi ba bàn tay giơ cao. Các câu hỏi lần lượt được đặt ra, có lúc khôi hài nhưng cũng có lúc gay gắt. Chẳng hạn:

– Thưa Cha, ông chồng con cứ mở miệng ra là quát tháo, là cộc lốc như dùi đục chấm mắm nêm. Phụ nữ chúng con, ai cũng muốn gia đình êm ấm, vợ chồng hòa thuận nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Nhịn mãi cũng tức. Ðã tức nước thì có ngày phải vỡ bờ mà con thì không muốn bờ bị vỡ sẽ ảnh hưởng đến con cái. Vậy Cha dạy con phải làm sao?

Có vài câu hỏi tiếp theo nhưng câu hỏi sau cùng mang sắc thái “bạo động” hơn:

– Thưa Cha, chồng con được tiếng là “ga lăng” nhưng chỉ “ga lăng” với hàng xóm. Dù chẳng ai yêu cầu ông “give me a hand” nhưng ông rất nhiệt tình “give them a hand”. Còn vợ ông làm gì thì cứ hì hục mà làm bất kể nặng nhẹ,  phần ông chỉ “điềm nhiên tọa thị” dán mắt lên màn hình TV rồi giật tay, giật chân theo điệu nhạc như mắc kinh phong. Lúc ấy, máu nóng của con bốc lên tận đỉnh đầu. Con hỏi thật, nếu ở vào trường hợp của con, Cha sẽ làm gì, đập nát cái TV? phang vào chân ông ấy một phát cho hả giận? hay phải tự an ủi mình bằng câu “C’est la vie”.

Có lẽ, sự bất mãn tồn tại lâu năm bây giờ mới có cơ hội bộc phát một cách công khai, mạnh mẽ nên bà chơi luôn một lúc vừa tiếng Việt, vừa tiếng Mỹ, vừa tiếng Pháp và cả “Nho” chùm, nho trái. Mọi người một phen cười nghiêng ngửa với giọng nói vừa chua, vừa chát với âm thanh đầy hậm hực của bà. Cha khép nhẹ đôi mắt, đưa tay xoa xoa vầng trán, cố kềm hãm nụ cười. Dẫu sao Cha cũng phải e dè khi thấy “nữ kê tác quái”, gà mái đang lăm le đá gà cồ. Vì thế, Cha hóm hỉnh trả lời cho bầu không khí trở nên êm ả hơn.

– Nếu là con, Cha sẽ làm gì? Một câu hỏi khá hóc búa đấy nhá. Và đây là câu trả lời của tôi. Nếu là bà thì tôi sẽ làm… Làm gì các bà biết không?

– Làm gì hả Cha?

Các bà nhao nhao lên và háo hức chờ đợi một câu trả lời tựa như cú đấm giáng vào mặt các ông hoặc là những răn dạy nhẹ nhàng nhưng thâm thúy đủ làm các ông ngượng ngùng tím mặt.

Thế nhưng câu trả lời của Cha chỉ có hai chữ. Hai chữ thật đơn giản và nhẹ nhàng như hơi thở mà khốn nỗi cái hơi thở ấy đã thổi tan đi sự háo hức đang ùn ùn dâng lên trong lòng các bà:

– Làm thinh!.

Các ông vỗ tay ào ào. Các bà tiu nghỉu, thất vọng “Thật là uổng công bao nhiêu ngày trông cậy vào Cha”, nhưng vẫn không giấu được nụ cười sau câu nói khôi hài ấy. Ðể xoa dịu sự căng thẳng, Cha nhỏ nhẹ, ôn tồn giảng dạy về nghĩa vụ của vợ chồng trong hôn nhân. Ðại loại như… để đạt được hạnh phúc thì giữa hai người phải có sự tôn trọng, đồng cảm, quan tâm, chia sẻ và nếu có mâu thuẫn xảy ra thì một trong hai người phải “hy sinh” lui một bước để giữ hòa khí trong gia đình. Cuối cùng, các bà cũng ra về với cảm giác thoải mái khi Cha cố ý “khẳng định” vị trí của người vợ:

– Thưa các bà, trong giao tiếp xã hội, chữ vợ luôn đứng trước chữ chồng. Người ta thường nói “hai vợ chồng tôi” chứ đâu ai nói “hai chồng vợ tôi” nên các bà yên tâm, mãi mãi các bà vẫn là nhân vật quan trọng nhất dù bất cứ ở đâu.

o O o

Chia tay bạn, bà bước ra cửa chợ ngay lúc cơn mưa ào ạt trút nước. Lùi ra phía sau, bà đi đến góc trái nơi có người phụ nữ đang nói chuyện trên điện thoại. Không rõ nội dung cuộc trò chuyện nhưng câu cuối cùng bà nghe được trước khi người ấy nói tiếng “bye” với ai đó làm bà chợt nao núng:

–  Tôi cũng biết phụ nữ giữ im lặng là khôn ngoan nhưng rốt cuộc tôi vẫn là người phụ nữ ngốc nghếch.

Làm thinh đồng nghĩa với im lặng. Vậy hổng lẽ mình cũng ngốc nghếch như cô ta sao? Tự dưng bà lại nhớ đến ngày xưa, cái ngày ông hay ôm đàn thủ thỉ  bên tai bà bản tình ca mà bà rất thích.

“Lối đi qua nhà em nghe nồng nàn mùi Dạ Lý thật thơm. Khi đêm sang đom đóm đong đưa, giờ nàng đã ngủ chưa? Ði lang thang khuya lắc khuya lơ, đèn nhà ai tắt sớm. Gom suy tư thao thức đêm khuya,
chàng bèn viết lá thư. Hai hôm sau mới dám đưa thư, nàng nhận nhưng làm thinh”. (*)

Bà bật cười rồi xô cửa bước ra ngoài, ngửa mặt hứng những giọt nước mưa mát lạnh, lòng bỗng nhẹ tênh và đó cũng là lúc bà chợt nhận ra hai chữ  “Làm Thinh” trở nên dịu dàng và dễ thương quá đỗi.

NB

(*) Lời trong nhạc phẩm “Gặp nhau làm ngơ” của NS Trần Thiện Thanh

DamHo chuyển


Thứ Tư, 30 tháng 10, 2024

MAI NÀY - Thơ Phượng Hồng và Bài Họa Của Các Thi Hửu

 


  Bài Xướng :

                              MAI NÀY 

Bờ vui hạnh phúc ở nơi nao

Kiếm mãi mòn hơi dạt chốn nào ?

Có phải trời xanh bồi thử thách

Hay là cõi tạm góp thương đau

Mỗi mùa lá đổ, vàng xuân sắc

Từng khắc giờ trôi, bạc mái đầu

Biển sóng mai này thôi khuấy động

Tình yêu rồi sẽ thắm tươi màu ?

PHƯỢNG HỒNG


Thơ Họa:

     1./  MỐT MAI

Hạnh phúc say tầm chốn chốn nao

Mãi trông mòn mỏi, biết nơi nào

Trần gian kể lể bao điều nản

Thế giới nhìn quanh lắm  kẻ đau

Bữa bạn ra đi, theo quyện  khói

Nay ta soi lại điểm sương đầu

Ô đời có hạn, mong chi nữa…

Tất cả phù du khẽ chuyển màu…

CAO BỒI GIÀ

 22-10-2024

 

     2./ KHÁT VỌNG

Khát vọng tương lai, tự thuở nào

Trùng hoan mộng ước mãi nao nao

Bọt bèo vơ vất cam đành xót

Giông tố quặt quày nhẫn chịu đau

Những tưởng ngày vui tràn bến mới

Nào hay xứ lạ nuối giang đầu

Hàn đông nhật nguyệt mờ sương khói

Máu chảy trong tim cũng bạc màu

Lý Đức Quỳnh

   23/10/2024

 

      3./ NẶNG LÒNG

Thuyền rời bỏ bến dạt phương nao?

Để kẻ tình si khóc nghẹn nào!

Sóng dạ từng đêm nhồi ruột thắt

Nỗi lòng mỗi khắc nhói tim đau

Thanh xuân thân hiến cho quê Mẹ

Son trẻ mạng quên giữ tuyến đầu

Đất tổ bình yên, đời khởi sắc

Non sông nghiêng ngả khó xanh màu!

     LAN

(23/10/2024)

 

4./NHỚ THUỞ BAN ĐẦU 

Hoàng hôn ngã bóng lại nôn nao

Mới sáng rồi trưa chẳng thể nào

Gặp mặt lời thương còn bẽn lẽn

Chia tay tiếng nghẹn khiến buồn đau

Đứng lên bảy tuyết bần thần dạ

Ngồi xuống năm tao thất thểu đầu

Tình nghĩa trông ngày xe chỉ thắm

Tơ duyên cầm sắt khó phai màu

ThanhSong ntkp

 CA.22/10/2024

 

  5./  PHẢI KHÔNG NÀO 

Chạnh ngẫm ta mình tự thuở nao

Tình luôn thắm đượm phải không nào?

Gia đình vốn hẳn thường vui vẻ

Cuộc sống chưa từng nếm khổ đau

Dẫu thoáng năm chào hay tết lại

Thời khi tháng biệt lẫn niên đầu

Niềm vui hạnh phúc đồng trân giữ 

Tổ ấm hằng chan chứa sắc màu…

Mai Vân-VTT

    23/10/24

 

    6./  DẤU XƯA

Có lúc tâm hồn lạc cảnh nao

Hình như nhớ mẹ phải không nào

Trần gian gối lết tìm êm đẹp

Cát bụi thân mòn nếm khổ đau

Giã biệt nhìn theo bờ tóc rối

Chia ly ngó lại mái sương đầu

Thương người khuấy động dòng sông cũ

Cũng chẳng gì thêm nhạt sắc màu

      Minh Thúy Thành Nội

Tháng 10/22/2024


 7./ HỒI TÂM GIÁC NGỘ

Đường trần Hạnh phúc tì̀m nơi nao

Kiếp sống buồn vui sướng cở nào ?

Mãi chuộng hư danh mê vật chất

Nào hay Đời khổ lắm thương đau.

Trả vay nhân quả bao đời kiếp

Quả báo oan gia phải đối đầu

Vạn sự đều do Thiên mệnh cả

Hồi tâm giác ngộ Phúc tươi màu...

Mỹ Nga

  23/10/2024 ÂL,21/09/ Giáp Thìn

 

   8./ TÌM MỘ CHIẾN SĨ 

Ngậm ngùi thương tiếc, dạ nôn nao

Nơi chiến trường xưa một thuở nào

Lỗ chỗ hố bom nằm rải rác

Khô cằn mảnh đất nhuốm sầu đau

Xạc xào ngon gió lay chòm cỏ

Nghèn nghẹn thân nhân gục mái đầu

Xương cốt chồng, cha tìm chẳng thấy

Nỗi buồn chẳng thể nhạt phai màu.

 Sông Thu

(23/10/2024 )

 

   HẠNH PHÚC KỀ BÊN

Hạnh phúc bên mình… chẳng chốn nao!

Kiếm chi mệt trí có nơi nào?

Đường xa vạn dặm chân mòn mỏi,

Bến tục bẩn vùi chuốt thảm đau.

Tình ái chia lìa nhau xót dạ,

Nghĩa nhân buông bỏ nhứt neo đầu.

Cận kề không biết trao trân quý,

Lại ngóng xây chi bóng úa màu!

                           *

Cuối cùng nhận chuốt đắng chua đau!

HỒ NGUYỄN

 (23-10-2024)

 

      10./  QUAY VỀ

Hạnh phúc thôi rồi chạy chốn nao

Thề xưa thất hứa phải không nào

Niềm vui mới đó sao đành phải

Ngăn cách nghìn trùng chịu khổ đau

Nghĩ lại đừng mơ màng ảo tưởng

Chúng mình duyên thắm mối tình đầu

Quay về anh đón trong tha thứ

Như thuở ban mai chớm sắc màu …

  Yên Hà

23/10/2024

 

11./ MÒN MỎI ĐỢI TRÔNG

Người xưa mất tích lạc phương nao

Tin tức, bặt tăm khổ thế nào ?

Chẳng biết trần gian bao tục lụy

Không hay cảnh ngộ lắm niềm đau

Ra đi chiếc bóng mờ sương khói

Bỏ lại cô thân bạc trắng đầu

Cuộc sống long đong chờ đợi mãi

Cõi đời lận đận nhạt phai màu…!

     MAI XUÂN THANH

Silicone Valley 10/23/2024

 

   QUẲNG GÁNH ÂU LO

Lủi thủi tìm vui ở cõi nào

Thế gian muôn vẻ đẹp lòng nao

Giải nhân lộng lẫy nồng hương nhuỵ

Trần cảnh xanh tươi rực sắc màu

Lục dục đưa tâm mê luyến ái

Thất tình đẩy trí nhận sầu đau

Nhẹ nhàng hưởng thụ gì đang có

Lão hạc vô lo dẫu bạc đầu

Hưng Quốc

      Texas 10-23-2024

 

         13./  HƯƠNG

Quê hương trở lại lòng nao nao

Đoái cảnh xem nay giống kiểu nào

Quan chức sang giàu nào đói rách

Dân tình nghèo khổ chẳng sầu đau

Cửa nhà chồng chất đường thông cống

Cán bộ xung phong phố dở đầu

Dòng nước ủ lâu nên rất tốt

Đem nuôi gia súc tưới hoa màu.

2024-10-23

  Võ Ngô

 

14./ CHÚT NẮNG TAN MAU

Nàng giận hờn ta buổi tối nao…

Chẳng hay đã phạm lỗi lầm nào?

Nhìn đôi mắt ướt… lòng chua xót

Ngắm cặp môi khô… dạ khổ đau

Hãy hát thầm thì như thuở trước

Xin cười xí xóa giống ban đầu

Tình yêu sắc thắm hoài trân quý

Chút nắng tan mau lại đượm màu

Anh Khờ

 

  15./   ĐI TÌM TỰ DO

Lỡ dịp này thì đợi dịp nao?

Nếu không ta biết dạt nơi nào?

Ra đi đổi mạng cầu may phúc,

Ở lại đày thân chuốc khổ đau:

Sáng sớm nghe loa thêm nhức óc,

Chiều hôm họp tổ những điên đầu.

Sơn son tủ gụ mong bong hết,

Sớm muộn cờ sao mau bạc màu.

Đỗ Quang Vinh

  23-10-2024

 

    16./  NẾU MỘT MAI

Nghĩ đến một mai lòng thấy nao

Bao nhiêu kỷ niệm tự hôm nào

Bỗng dưng nhung nhớ thành xa vắng

Rồi chợt dấu yêu hóa khổ đau

Thôi chớ trách hờn tình đã tắt

Hãy cùng trân quý mộng ban đầu

Ngày kia dẫu có đời ly biệt

Tình vẫn trong ta mãi thắm màu

Toàn Như



       GẮNG QUÊN

Nhớ buổi xa nhà một sáng nao

Thầm mong trở lại biết khi nào?

Rì rào biển lạnh tâm buồn chán

Tĩnh mịch đêm dài nỗi buốt đau

Dạ cảm bồi hồi nơi đất khách

Mình nghe lạc lõng phút ban đầu!

Bao mùa tuyết phủ niềm tây gợi

Quá khứ dường như đã bạc màu!

 Như Thu

10/24/2024

 

      18./ CHỐN CŨ 

Nhạn về, Thu tới, dạ nôn nao

Không biết tháng năm sẽ thế nào

Cánh vạc kêu sương buồn não nuột

Thân cò lạc bãi lượn sầu đau

Em thơ thủa ấy còn xanh tóc

Bạn học thời nay đã bạc đầu

Đứng trước mênh mông trời đất rộng

Hoa thiên tuế nở chẳng phai màu ...

    Hawthorne  24 - 10 - 2024

CAO MỴ NHÂN

 

      19./ MAI NÀY

Hiện tại chưa yên khiến nóng nao…

Cầu mong tất thảy góp tay nào

Cất cho nỗi khổ tăng lòng mến

Dựng lại tình thân giảm nỗi đau

Bằng chẳng thế gian thành địa ngục

Nếu không con cháu sẽ điên đầu

Vậy mau tiếp sức hầu canh cải,

Cuộc sống ngày thêm thật đượm màu.

Thái Huy

10/23/24

 

20./ HẠNH PHÚC LOANH QUANH

Hạnh phúc loanh quanh chẳng hướng nào

Cận kề chớ kiếm, khổ lòng nao

Thật thà được tiếng nào ngu dại

Ngốc nghếch giã lời đỡ đớn đau

Tự tại tâm tư thôi xót dạ

An nhiên trí óc chả đau đầu

Tình thương lan tỏa đời vui sướng

Cuộc sống thế nhân ắt đượm màu

songquang

 20241024

 

   21./  THU ERIE

ERIE Thu ấy dạ còn nao

Lạnh lẽo cô đơn của thuở nào.

Thành phố buồn tênh gây nỗi nhớ

Tin nhà bằng bặt xót niềm đau.

Mịt mờ trời đất làn sương sớm

Trắng xóa đường xe trận tuyết đầu.

Rào rạc vàng bay se sắt khách

Hồn vương theo chiếc lá thay màu!

  Mailoc

10-24-24


22./ HẠNH PHÚC Ở ĐÂU 

Đi tìm hạnh phúc dạ nôn nao

Biết nó giao du ở chỗ nào ?

Vô ảnh vô hình nhưng ảnh hưởng

Khi không khi có dễ làm đau

Ấm lòng xuân hạ , thu phai sắc

Lạnh lẽo trời đông  , tuyết bạc đầu

Thời tiết hàng năm đều biến đổi

Buồn vui hạnh phúc cũng thay màu!

THIÊN LÝ




Trang thơ Hà Đặng ; NHỚ TRỌN ĐỜI, KHÔNG THAY ĐỖI, XIN DÙM NHỚ NHAU...(T.10/24.2 )

1./  NHỚ TRỌN ĐỜI

Tôi kể người nghe một chuyện tình
Yêu nhau qua những áng thơ xinh
Hứa là mình sẽ bên nhau mãi
Dù rất là xa đoạn cách dài
Tôi kể người nghe chuyện những ngày
Lời thương ai đã gởi trao tay
Hứa rằng mãi mãi không thay đỗi
Dù sóng ngoài khơi vẫn lấp bồi
Tôi kể người nghe lại những lời
Mà ai trao gởi buổi hôm xưa
Hứa rằng sẽ chẳng rời nhau nữa
Dù cách ngăn đôi giữa cuộc đời
Tôi kể người nghe lại những lời
Hứa rằng trọn kiếp chẳng hề vơi
Dù cho ta có rời xa mãi
Giữ mảnh tình ai ...nhớ trọn đời
HD 13/10/2024))

2./ KHÔNG THAY ĐỖI

Có những nỗi nhớ làm hồn ta trăn trở
Có những nỗi buồn làm nức nỡ hồn đau
Một chút xa nhau sao lại thấy lệ trào
Lời ân ái ngọt ngào còn đâu nữa
những lúc một mình ta tựa cửa
Nhìn mưa rơi mà nghe dạ rã rời
Người đi rồi ta cảm thấy chơi vơi
Tình yêu hởi! ngàn đời ...không thay đỗi
HD 12/10/2024

3./ XIN DÙM NHỚ NHAU

Hôm nay chợt thấy trong lòng
Buồn như con nước trên dòng trôi xuôi
Chuyện tình như hạt bụi mưa
Làm sao giữ mãi âm thừa người ơi!
Hôm nay chợt thấy đơn côi
Hình như tình đã trôi xuôi theo dòng
Chuyện tình như một con sông
Làm sao giữ mãi...ấm nồng tình ai
Chỉ mong tình chẳng đỗi thay
Cho tôi giữ lại tháng ngày bên nhau
Dù rằng đời có ra sao
Mong rằng ta mãi... có nhau trong đời
Dầu mai vật đỗi sao dời
Xin ai hãy giữ trọn lời thủy chung
Cho dù không được tương phùng
Nghìn trùng ngăn cách... xin dùm nhớ nhau
HD 22/10/2024

NGUỒN GỐC NHỮNG TỪ NGỮ VIỆT KHÓ HIỂU

  Trong ngôn ngữ tiếng Việt  miền Nam, nhiều chữ rất khó hiểu nhiều khi nhiều người không biết nó xuất xứ từ đâu. Sau đây là một vài thí dụ tiêu biểu:

1- Sóc trăng: Tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh'leang của tiếng Khmer mà ra. Srok tức là "xứ", "cõi", Kh'leang” là "kho", "vựa", "chỗ chứa bạc". Srok Kh'leang mang ý nghĩa là xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Vit phiên âm ra là "Sóc-Kha-Leng" rồi sau đó thành Sóc Trăng. Dưới triều đại vua Minh Mng, Sóc Trăng đổi thành Sông Trăng, dịch theo Hán t là Nguyệt Giang (月江), nên Sóc Trăng gọi là Nguyệt Giang tỉnh. Ngày nay gọi trở lại là tỉnh Sóc Trăng.





2- Cà chớn cà cháo: là tiếng lóng ở miền Nam, người Trung, người Nam nào cũng hiểu “cà chớn” là gì, nhưng người miền Bắc thì không biết từ này. Theo các nhà  ngôn ngữ học, từ “cà chớn” bắt nguồn từ tiếng Miên “Kchol”, người Việt  phát âm “Cà chon”, đọc trại thành “Cà chớn”, có nghĩa là không đáng tin  lắm từ lời nói đến hành động.

        Nói ai “cà chớn” là có ý chê, nhưng cũng không có nghĩa là hoàn toàn xấu. Chẳng hạn “Chờ tới giờ này mà nó chưa đến, đồ thứ cà chớn”, hay “chiếc xe hôm nay cà chớn, đạp máy hoài mà không chịu nổ”. Tuy nhiên, có thể nặng “Có tới bằng cấp đó, chức vụ đó mà ăn nói lý luận cà chớn quá”.

       Vì gốc tiếng Miên, nên chỉ  có dân Đàng Trong từ thời Chúa Nguyễn biết từ này, còn người Đàng Ngoài  của chúa Trịnh tuyệt nhiên không biết. Từ này nhẹ hơn từ “cà tửng”, có nghĩa gần như điên như khùng, thần kinh bị “mát”.

       Hai từ “Cà Chớn” rất phổ biến ở miền nam trước 1975. Mặc dầu bắt đầu bằng chữ “Cà” nhưng không có  nghĩa là thực phẩm dùng để ăn như Cà chua, Cà pháo, Cà tô mát v.v… và  cũng không có ý nghĩa là khuyết tật như Cà Lăm!

       “Cà chớn” khó định nghĩa như thế nào cho chính xác. Cà chớn không hề có nghĩa là láo lếu, cũng không có ý nghĩa là xấu xa, nhảm nhí. Thí dụ bạn hẹn một người bạn đi uống cà phê, nhưng anh ta đến muộn, bạn phán là “thằng cà chớn”. Vậy không có nghĩa là anh bạn kia là một người bạn xấu.

       Hoặc bạn nghe một người  bạn nào đó đùa dai một câu như “trông cô gái kia phốp pháp, có vẻ hạp  với ông đấy”. Bạn chỉ có thể kết tội anh ta là cà chớn chứ không thể cho là anh ta nói láo.

       Đôi khi nó có nghĩa là xấu, đôi khi nó có nghĩa là vui đùa, đôi khi nó có nghĩa là không tốt,  không xấu nữa. Thí dụ, bạn nói về một người bạn rằng: “Thằng ấy nó cà chớn thế thôi chứ không xấu bụng đâu”. Vậy cà chớn là không tốt cũng không xấu.

       Xem ra hai tiếng “cà chớn” này rất khó dịch sang tiếng ngoại quốc. Tôi cứ nghĩ, nếu không là người Việt Nam thì khó mà hiểu nổi “cà chớn” có nghĩa là gì.

       Tuy nhiên người Việt Nam nào cũng có thể cảm nhận được, hiểu ngầm được hai tiếng này. Nhóm chữ “văn hóa cà chớn” tôi dùng ở đây mang tất cả các ý trên….

3- Song hỷ: Hầu như đám cưới nào cũng hiện diện chữ (囍 - song hỷ") trên phông chính, trên tráp quà, bánh cưới..., nói chung là ở khắp mọi nơi. Vậy chữ này có ý nghĩa gì và xuất xứ từ đâu?

Theo lời người xưa, chữ "hỷ' (喜) là giai thoại đẹp gắn liền với việc tình duyên thiên định. Vào thời Bắc Tống ở Trung Quốc, có chàng trai ham học tên là Vương An Thạch (sau này là tể tướng). Năm 20 tuổi, cậu lên kinh dự thi, giữa đường đi qua một vùng trù phú, đúng lúc nhà Mã viên ngoại đang kén chồng cho cô con gái xinh đẹp. Ông muốn kiếm cho con một tấm chồng không cần quá giàu có nhưng nhất định phải là hiền sĩ.

        An Thạch đi qua thấy nhà viên ngoại có đề một vế đối: “Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” (Ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân). Ai đối được thì viên ngoại sẽ gả con gái cho người đó.

Mặc dù chưa nghĩ ra vế đối lại nhưng An Thạch vẫn nói cứng: “Câu này dễ đối” rồi lại tiếp tục lên kinh dự thi. Người nhà viên ngoại nghe được nhưng chưa kịp mời vào diện kiến thì bóng cậu đã hút xa.

        Khi đến trường thi, Vương An Thạch là người nộp bài đầu tiên. Vua lật xem khen tấm tắc liền gọi lên để thử thêm tài. Nhà vua nhìn thấy ở sân rồng có một lá cờ lớn liền đưa ra vế đối: “Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân" (Hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình).

        An Thạch nhớ lại vế đối nhà Mã viên ngoại thấy rất chỉnh với câu này liền dõng dạc: "Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ". Nghe xong câu đối chỉnh mà ý nghĩa sâu sắc, vua lấy Vương An Thạch đỗ thủ khoa.

        Trên đường quay về nhà, được mời vào nhà Mã viên ngoại, An Thạch liền đối lại bằng chính đề thi của vua. Viên ngoại bất ngờ thích thú nên nói khéo với An Thạch đó là câu đối kén rể. Vị tân khoa vui mừng nảy ra câu thơ:

Vận may đối đáp thành song hỷ,
Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng.

       Từ đó, chữ "song hỷ" ra đời, thể hiện sự cát lợi, may mắn tiếp may mắn, tốt đẹp không ngừng.

4- Bay bướm: Trong Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “Bay bướm”: Có hình thức trau chuốt, bóng bẩy, hơi kiểu cách như “Ăn nói bay bướm. Kiểu chữ bay bướm”. “Câu văn bay bướm”. Có lẽ định nghĩa trên khiến nhiều người liên tưởng đến sự sặc sỡ của con bướm nên đã đinh ninh: Bay bướm là nổi bật như con bướm bay mang ý nghĩa linh hoạt, đẹp đẽ!

5- Chợ Cái Răng Cần Thơ:
Ta thường nghe câu ca dao trong dân gian:

“Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng,
Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn.
Em treo bẹo Cái Răng, Ba Láng,
Ta thương hồ Vàm Xáng, Cần Thơ.”
       Câu ca dao trên nhắc đến những địa danh ở Cần Thơ mà đi đầu là Cái Răng - một trong những chợ nổi lớn nhất miền Tây. Tuy được nhiều người biết đến nhưng không phải ai cũng hiểu: Cái Răng có xuất xứ từ đâu? Liệu “Răng" ở đây có phải là “răng” trong “răng trong miệng không"?
       Có thuyết cho rằng tên Cái Răng bắt nguồn từ một truyện cổ. Xưa kia, ở Cần Thơ có con cá sấu chuyên hại người. Về sau, nó bị giết, mỗi bộ phận trôi dạt về một phương, riêng phần răng dạt vào nơi bây giờ là chợ nổi nên gọi là Cái Răng. Tuy nhiên truyện này có nhiều tình tiết hư cấu, khó thuyết phục.

        Thực tế, trong “Tự vị tiếng nói miền Nam”, cụ Vương Hồng Sến có giải thích rằng, “Cái Răng” có nguồn gốc từ “karan” trong tiếng Khmer, có nghĩa là “Cà ràng”. Đây là tên gọi của một chiếc lò làm từ đất nung do người Khmer chế tạo, được bán nhiều ở dọc theo lưu vực sông Cần Thơ. Dần dần, người Việt đọc trại là “cà ràng” thành “Cái Răng”, và lấy cái tên này đặt cho chợ nổi lớn nhất vùng.
        Tóm lại, tên gọi “Cái Răng” xuất phát từ “karan”, chỉ nơi làm ra một loại lò đất nung trong tiếng Khmer. Còn gọi “ch ni là vì toàn b ch t người bán, ca hàng, người mua đu s dng thuyn ghe đ trao đi nhau trên mặt nước. Nước dâng cao thì chợ lên cao, nước xuống thấp thì chợ hạ xuống. Nếu không may có bão táp thì hư hại tăng lên rất cao, đôi khi không thể họp chợ được.
5- Vùng khỉ ho cò gáy:
 Thành ngữ này chỉ những nơi rất hoang vu, vắng vẻ, có điều kiện sống khắc nghiệt nên rất ít người ở hay qua lại. Vùng “khỉ ho” ý chỉ việc con người rất hiếm khi nghe được tiếng con khỉ ho do địa bàn sinh sống của chúng rất vắng vẻ, xa lạ với con người. Còn cụm từ “cò gáy” mặc dù không có nghĩa gì nhưng khi kết hợp với cụm từ “khỉ ho” thì cả hai cụm từ vẫn thể hiện sự vắng vẻ, hiu quạnh, không có nghe gì liên quan đến hoạt động kỳ lạ của hai loài vật trên..

        Thí du nghe câu nói: “Tôi cũng không hiểu vì sao anh ta lắm tiền thế, lại về cái vùng đất khỉ ho cò gáy đó để sinh sống”.

       Thành ngữ, tục ngữ đồng nghĩa vs vng v như câu trên  “Thâm sơn cùng cốc” hay “Sơn cùng thủy tận”.

6- Sui gia: Sui gia là phương ngữ Nam bộ, đồng nghĩa với thông gia là phương ngữ Bắc bộ, chỉ sự liên hệ hai gia đình cưới hỏi dâu rể.

        Chúng ta không đồng thuận với quan điểm chữ thông gia” này, bởi vì chúng ta biết rằng Từ điển Việt-Bồ-La (1651) là quyển từ điển đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ, bao gồm cả từ vựng được sử dụng ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, trong đó chỉ ghi nhận từ sui gia, không có thông gia (tr.703 - 704). Năm 1838, quyển Nam Việt - Dương Hiệp Tự vị của Jean-Louis Taberd xuất hiện, vẫn chỉ có từ sui gia (𡢽家, tr.453), không có thông gia; đến năm 1898 thì trong Dictionnaire Annamite-Francais của J. F. M. Genibrel cũng vậy, chỉ có từ sui gia (tr.707), không hề có thông gia.

        Như vậy, sui gia là từ được sử dụng trong cả nước, về sau mới xuất hiện từ thông gia (通家), có thể từ đầu thế kỷ XX. Hiện nay, xét về tần suất sử dụng thì từ thông gia phổ biến ở miền Bắc, còn sui gia phổ biến trong Nam chứ không phải thông gia thuộc phương ngữ Bắc, còn sui gia thuộc phương ngữ Nam.

        Sui là từ Nôm, còn gia là từ Hán Việt.

        Theo nhận định này không chính xác, vì cả sui và gia đều được ghi nhận bằng chữ Nôm. Sui (𡢽) là chữ thuần Nôm, kết hợp từ 2 chữ Hán là nữ (女) và lôi (雷) theo lối hình thanh; còn gia (家) là chữ mượn nguyên xi từ chữ Hán để tạo thành chữ Nôm theo lối giả tá.

         Ví dụ, câu Sui gia (𡢽家) bao nỡ đổi dời chẳng thương” (trích Lục Vân Tiên truyện) hoặc “Sui gia (𡢽爺) đã xứng sui gia” trong Vân Tiên cổ tích tân truyện (Liễu Văn Đường tàng bản), khắc in năm Khải Định thứ 1 (1916). Nhìn chung, cả hai bản Nôm trên đều ghi nhận chữ sui (𡢽) giống nhau, song chữ gia có khác biệt với 2 cách viết 家 (gia) và 爺 (gia). Chúng tôi cho rằng cách viết 家 (gia) là chuẩn xác, bởi vì chữ này kết hợp với chữ 𡢽 (sui) và đều được ghi nhận trong từ điển (của Taberd và Genibrel), còn chữ 爺 (gia) thì không.

         Hiện nay có 2 giả thuyết về từ nguyên của “sui gia” mà chúng tôi cho rằng đáng chú ý: Trong Tầm nguyên tự điển, Giáo sư Lê Ngọc Trụ cho biết chữ “sui” trong sui gia là từ chữ đối (對), sui gia là đối gia (對 家). Điều này có lý bởi nếu đọc theo tiếng Quan Thoại thì 對 家 sẽ có âm là duì jiā, nghe khá giống cách đọc từ sui gia trong tiếng Việt. Tuy nhiên, trong từ điển Taberd và Genibrel (sđd) lại không ghi nhận từ đối gia nên chúng tôi xin bỏ qua quan điểm này.

       Nhiều khi ta còn thấy một số nơi còn viết sai chính tả thay vì “sui” lại viết “xuôi” hay “xui” là không đúng nghĩa của gốc chữ.

7- Con ông cháu cha:

       "Con ông cháu cha" là một thành ngữ được sử dụng phổ biến, được dịch sang Tiếng Anh là "Born with a silver spoon in your mouth". Câu này chỉ con cháu của những người có quyền lực trong xã hội. Những người thuộc diện "con ông cháu cha" luôn được ưu ái đối xử.

        Thành ngữ này còn được giới trẻ gọi tắt là COCC mang sắc thái đùa vui, giải trí. Tuy nhiên, vì sao lại nói "con ông cháu cha" mà không phải "con cha cháu ông" thì vẫn là một bí ẩn đối với nhiều người.

        Đầu tiên, về khía cạnh lịch sử, từ cuối thế kỷ thứ XIX, người Pháp đưa ra điều luật cần phải bảo vệ những cha xứ giảng đạo ở Việt Nam. Ăn theo giáo phái phương Tây là sự xuất hiện của các cha xứ tại các thôn xóm, làng bản Việt Nam. Những người này làm việc cho Pháp, được Pháp tin dùng và ban cho nhiều quyền hành. Vì thế, cha xứ nghiễm nhiên trở thành những "ông quan nhỏ" tại địa phương.

Các cha cố này không có vợ con nhưng có nhiều người thân thích gọi là "chú", "bác". Vậy là một thế hệ "cháu cha" hình thành, để lại thành ngữ "con ông cháu cha" mà chúng ta đang sử dụng trong lời ăn tiếng nói thường ngày.

        Ngoài ra, trong Tiếng Pháp còn xuất hiện từ "népotisme" nói về việc một số vị Giáo hoàng ngày xưa ở châu Âu vì tình thân thích đã lạm dụng quyền hành để ban nhiều đặc lợi cho cháu của mình. Đây là truyền thống không tốt đẹp nhưng đã vô tình làm phong phú thêm cho kho tàng thành ngữ dân gian Việt Nam.

         Tiếp theo, xét về mặt ngữ nghĩa, nếu nói "con cha cháu ông" thì là điều hiển nhiên, con nào mà chẳng là của cha, cháu nào mà chẳng là của ông. Cách nói này sẽ thừa và không chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa.

        Còn khi nói "con ông cháu cha", chúng ta sẽ thấy 2 nhóm rõ ràng: Nhóm 1 là "ông" và "cha" biểu trưng cho quyền thế; nhóm 2 là "con" và "cháu" biểu trưng cho dòng dõi nhà quyền thế. Dù sự đảo từ này phi logic nhưng tạo nên lớp nghĩa thể hiện điều trái quy luật, bất bình đẳng và ưu tiên quá mức đối với tầng lớp con cháu của những người có thế lực trong xã hội.

        Ngoài ra, cách nói này là một hiện tượng ngôn ngữ, chúng ta còn dễ dàng bắt gặp nhiều thành ngữ có cấu trúc tương tự. Chẳng hạn như: "Bướm chán ong chường", "cao chạy xa bay", "đau đầu nhức óc", "ruồi bu kiến đậu",… Cách đảo từ phi logic từ những cặp từ ghép giúp nhấn mạnh sự việc được ám chỉ và tạo nên cách nói thuận miệng. Đó cũng là quy luật hình thành nghĩa biểu trưng của các thành ngữ loại 4 âm tiết.

        Ngày nay, danh t “con ông cháu cha” được lần lần thay đổi sang “con cháu đại gia”, đó là thành phần ưu thế, quyền lực trong xã hội. Như: “Bây giờ, tụi nó sống sung sướng vì đều là con cháu đại gia không hà. Mấy đa nhỏ được đưa đi học bằng xe hơi. Nhà cao, cửa rộng xe cộ sang trọng, đi ngoại quốc du học dễ dàng. Sang Mỹ du học, nó còn mua nhà trả pay off ngay, chứ không phải như mình phải vay mượn ngân hàng phải làm việc cực nhọc để trả nợ hàng tháng đâu!”.

        Tóm lại, khi tiếp nhận một câu thành ngữ, tục ngữ, ta nên hiểu theo nghĩa biểu trưng, nghĩa ẩn dụ, chứ không nên hiểu một cách cứng nhắc.

        Tiếng Việt thật sâu sắc, mang nhiều ý nghĩa phong phú!

                                                                *

Tài liệu do Hồ Xưa sưu tầm từ nhiều nguồn kết hợp lại và phổ biến

Trang Thơ NKĐ (T.10/24. 2 ) : ĐÓN ĐƯA , ĐƯỜNG XƯA , THÂN PHẬN , MẶC TÌNH

1./ ĐÓN ĐƯA Bây giờ đường sá phẳng phiu Người qua kẻ lại dập dìu hơn xưa Một ngày mấy lượt đón đưa Cháu đi trường học , ta mua chuyện đời Ph...