Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2020

TÁM MƯƠI PHẦN TRĂM- Nguyễn Ngọc Tư


TÁM MƯƠI PHẦN TRĂM

(Nguyễn Ngọc Tư)

Bạn bè bảo tôi viết về đề tài nông dân là quá trời khôn, đối tượng đọc
nhiều mà đề tài cũng phong phú, đến tám mươi phần trăm dân số của Việt
Nam là nông dân kia mà. Tôi nghe, cười, chảy nước mắt ra, như khóc.

Phải, tôi đang viết về họ, những người nông dân, nhưng viết trong im
lặng rợn người, không phản hồi, không chê bai. Chẳng có bao nhiêu
trong số tám mươi phần trăm ấy đọc được những gì tôi viết. Với họ, văn
chương vừa là thứ xa xỉ, vừa là đồ bỏ đi. Có người còn không biết chữ,
có người áo không lành, có người không đủ gạo ăn, dậm lia thia trên
những cánh đồng năn bỏ vô keo chao để đem ra cổng trường tiểu học ngồi
bán... Những người ấy, tôi bưng văn chương tới cho, họ còn nổi quạu,
chửi thề, phải trái bắp, gói xôi... còn giúp người qua bữa, chứ một
đống chữ làm sao no lòng.

Và những ảo tưởng văn chương của tôi đã tan, lâu rồi. Nhiều lúc ngồi
trước trang viết, tôi thấy tuyệt vọng. Làm sao diễn tả được cái xót
của mồ hôi chảy xuyên qua chân mày xuống mắt một người gánh nước giữa
nắng trưa tưới cải? Làm sao chuyển tải được cái đau thắt ruột khi nhìn
đồng lúa sắp thu hoạch của mình tả tơi trong mưa bão? Làm sao tôi lột
tả được tâm trạng của người cha khi những đứa con giành nhau cạo cơm
cháy?


Khi cuốn chiếu ngồi chò co nhìn mưa nửa đêm dột tinh tang xuống đầu
giường? Họ buồn, nhưng buồn đến độ khủng khiếp nào? Tôi biết diễn tả
cái buồn ấy ra làm sao? Bởi so sánh với nỗi buồn... mất điện thoại của
tôi, nỗi buồn mất việc hay thất tình của bạn, thì quá khập khiễng,
chênh vênh.

Và ngay cả nỗi vui của người nông dân cũng khiến người ta thắt lòng
khi chia sẻ. Tôi có quen một người vừa được giao việc xé phiếu thu
tiền nhà vệ sinh chợ xã. Gặp tôi trong cái ngày “trọng đại” đó, ông hồ
hởi khoe “nhà tôi giờ có đồng ra đồng vô rồi, cô ơi”. Nghe nói ông
cũng trần thân, làm đơn xuôi ngược, cuối cùng “ghi điểm” là vì gia
đình không đất sản xuất, mới được “chọn mặt gởi... nhà vệ sinh”.

Vậy đó, người ta vui muốn chết mà tôi thì không thể buột miệng cười.
Bởi nhìn nét mặt sương gió của ông, tôi thấy lẩn khuất sự xót xa. Cũng
vậy, cái người vừa nhận được sổ nghèo kia, làm sao trong mắt họ chỉ có
hớn hở mà không vương chút tủi buồn. Cực chẳng đã… Chợt nhận ra niềm
vui của người nông dân bé mọn, giản dị, đạm bạc biết chừng nào. Chỉ
cần một mùa lúa trúng. Một chén cơm đầy với thịt cá tươm tất. Một
chiếc tivi để coi cải lương vào mỗi chiều thứ sáu. Một chiếc xuồng nhỏ
để đêm đêm đặt trúm, giăng câu…

Tôi bắt đầu nghĩ tới ngày mình không viết về những người nhà quê nữa.
Bởi tôi không có nhiều lựa chọn, hễ viết về nông thôn là nói ngay tới
cái cơ cực, thiệt thòi, nghèo đói. Một sự lặp lại nhàm chán. Mới đọc
cái tựa là người ta biết tỏng tòng tong trong bài ấy tôi nói cái gì.
Ai nghĩ là tôi vớ được đề tài phong phú đâu. Ai sẽ chấp nhận tôi viết
như vầy:

“Sớm đó chú Hai Lúa đi đánh tennis với mấy ông bạn láng giềng về, đang
dắt con chó becgiê đi chơi, điện thoại chợt reo tửng từng tưng, giọng
Ba Ngô bên kia xởi lởi, lâu quá không gặp cha nội rồi, chiều nay lại
nhà hàng Diễm Diễm uống với nhau một bữa, tui mới lên mấy ao cá được
gần một tỉ đồng đây. Mà, mùa lúa rồi ông cũng thu năm trăm triệu chớ
ít gì…”. Bạn đọc sẽ thấy ngộ, thấy kỳ cục, vô duyên đến mắc cười. Bi
kịch hơn là người đọc sẽ mắng tôi xối xả, nông dân đã khổ muốn chết
rồi mà nhà văn còn chua chát, mỉa mai… Buồn thiệt buồn, phải nhân vật
trong đoạn văn trên là cán bộ, doanh nhân thì quá hợp lý, còn đằng
này…

Tôi nhận ra tám mươi phần trăm dân số Việt Nam, con số này giống như
cua ốp, nghĩa là có vẻ hùng hồn, to tát vậy chứ trong ruột teo héo,
rỗng không. Người ta chẳng nhớ tới họ khi nghiên cứu đề tài khoa học
hay thiết bị máy móc này nọ (kết quả là nông dân tự mày mò chế tạo ra
máy để gặt, sấy lúa, gieo mạ, tách hạt bắp, đến cả… máy bay).

Người ta quên mất tiêu (hay giả bộ quên) nông dân khi quyết định tăng
học phí, tăng giá tiêu dùng, khi chia chác đất đai… Và nhiều lúc người
nông dân bỗng vô hình, trong vắt trong mắt những công chức ít khi
cười. Có cảm giác như người nông dân sống bình dị, lặng lờ quẩn quanh
trong lũy tre làng lâu quá nên đã bị lãng phai đi.

Ngày mai này tôi cũng buộc lòng quay lưng với họ, làm ơn ai đó cất lên
giùm những tiếng nói xót xa!

(*) Con số này không chính xác; có thể ít hơn vì những chàng trai cô
gái quê đang lũ lượt rủ nhau phiêu bạt kiếm sống giữa các thành phố,
các chợ người, những cuộc hôn nhân may rủi; có thể nhiều hơn, vì những
người ra vẻ kẻ chợ chảnh chọe như tôi, rốt cuộc cũng nằm trong tám
mươi phần tr
ăm bé mọn ấy.

Nguyễn Ngọc Tư

(Hoa huỳnh chuyển)

1 nhận xét:

Chúa Giêsu – Thiên Chúa giáng sinh - Tác giả: Nguyễn Hữu Đổng

  Chúa Giêsu là gì? Vấn đề này chưa được giới học thuật hiểu rõ. Bằng tư duy lịch sử giới, tác giả lý giải làm sáng tỏ Chúa Giêsu; đồng thời...