Thứ Hai, 22 tháng 3, 2021

RỒI CÓ MỘT NGÀY - Trần Công Trí

Rồi Có Một Ngày

Tác giả: Trần C. Trí


Bài số 5519-20-31326-vb5101118

Tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016 và vừa nhận thêm Giải
Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học
tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại
UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học
các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và thành người đầu
tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ
năm 2000 cho tới nay. Bài viết mới của ông về quan hệ giữa cha mẹ và
con cái.


Vợ chồng tôi có một gái và một trai. Nói theo kiểu các cụ ngày xưa là
có nếp có tẻ. Thằng bé út cách chị nó đến những mười tuổi. Con chị vừa
học xong cao học, còn thằng em thì mới tập tễnh vào trung học.

Tôi thường nói đùa với bạn bè và người thân là “Mười năm không đẻ
tưởng tình đã cũ!” Sự thân thiết trong nhà tôi cũng có tính cách hài
hoà. Thằng nhỏ đeo mẹ nó như sam, suốt ngày cứ bá cổ mẹ, ngửi tóc mẹ
và rên lên “Con thương mẹ! Con thương mẹ!” Chị nó thì thường đi chợ
hay mua sắm đồ đạc trong nhà với mẹ, nhưng lại thích đi ăn vặt hay
uống cà-phê với bố, nói chuyện học hành, làm việc với tôi, xem ra tâm
đầu ý hợp lắm.

Tính tôi ưa nghĩ ngợi lôi thôi. Nhìn gần mà lại nghĩ đến xa. Những lúc
trong gia đình sum họp, ăn uống hay xem ti-vi với nhau, tôi thường tự
nhủ mình hãy tận hưởng những giây phút đẹp đẽ như thế này. Mai kia mốt
nọ con cái sẽ lớn lên cả, lúc ấy tha hồ mà thấy trống vắng. Tôi lập
gia đình tương đối muộn. Một số bạn bè tôi người thì đã có dâu, có rể,
kẻ còn có cả cháu nội, cháu ngoại.

Có những người bạn tuy con cái chưa có gia đình, chúng cũng đã ra
riêng. Những người bạn như vậy, mỗi lần gặp chúng tôi thường lắc đầu
bảo “Tụi này giờ đã là ‘empty nesters’ cả rồi”. Tôi thấy hai chữ tiếng
Anh này cũng hay hay. Tiếng Việt mình hình như không có khái niệm này,
có lẽ nhà nào cũng không người này cũng có người kia sống chung với
nhau trong nhà. Nếu rán dịch hai chữ đó ra tiếng Việt thành “những
người trong tổ trống” thì nghe cũng buồn cười ra phết.

Một tối nọ, sẵn phải đem một món đồ qua đưa cho bà chị, tôi cao hứng
rủ con gái cùng đi, bảo là sẽ ghé tiệm mua cà-phê, vừa mang sang cho
bà ngoại, vừa mua cho hai bố con uống một thể. Vốn thường thích đi với
bố để tâm sự tỉ tê, con bé vui vẻ đi với tôi ngay. Trên đường về, hai
bố con nói hết chuyện này sang chuyện khác. Con bé bảo sao mà thấy bố
mẹ mua nhà hay quá, tới phiên nó chắc khó lòng mà mua nổi. Nó bảo
lương bổng tăng lên theo thời giá thì ít, trong khi giá cả địa ốc còn
tăng lên gấp bao nhiêu lần. Đoạn nó “dụ dỗ” tôi:

- Hay là bố mẹ cho con vay tiền down nhà. Khi có con sẽ trả lại. Con
sẽ cho share mấy phòng, còn một phòng để ở. Như vậy sẽ có người trả
tiền nhà cho mình, mà lại dư ra chút đỉnh để dành trả nợ cho bố mẹ.

Tôi trầm ngâm hỏi nó:

- Như vậy là con đang tính ra ở riêng phải không? Theo bố mẹ, con nên
ở với bố mẹ cho đến khi nào có chồng rồi mới ra riêng.

Con gái tôi kêu lên:

- Kỳ lắm bố ơi! Ở xứ Mỹ này hai mươi mấy tuổi mà còn ở với bố mẹ thì
người ta cười ê mặt lắm bố ạ.

Tôi cáu kỉnh bảo:

- Kỳ với cục cái gì! Ai cười thì hở mười cái răng. Người ta bảo xa mặt
cách lòng. Con mà ở riêng rồi, mình sẽ ít sinh hoạt với nhau hơn.Lâu
ngày bố mẹ, con cái, chị em đâm ra lạt lẽo hồi nào không hay.

Cuộc nói chuyện với con gái đêm hôm ấy làm tôi giật mình. Cũng như hầu
hết mọi người chung quanh, tôi cứ sống ngày này qua tháng nọ, xem
những chuyện thường ngày như chuyện đã đành. Coi những người sống
quanh mình cũng là chuyện đã đành.

Trong nhà tôi, từ hơn một tháng nay có cô em vợ ở tiểu bang khác đang
ở với chúng tôi. Cô đang bị một chứng bệnh mà bác sĩ ở Cali có thể
chữa trị hữu hiệu hơn. Vợ tôi xuống nhà dưới ngủ chung với cô em gái
để lo cho cô. Còn một mình tôi đêm đêm nằm trong phòng, thấy sao chiếc
giường bỗng rộng mênh mông. Chúng ta thường chỉ cảm nhận thiếu vắng
một người nào khi điều đó thực sự xảy ra.

Một đêm nọ, tôi thấy khó ngủ nên với tay lấy cái remote control bật
ti-vi lên tìm một cuốn phim nào đó xem cho buồn ngủ. Tìm một hồi lâu
trên Netflix, cuối cùng tôi chọn một cuốn phim mà tựa đề nghe thật
nhạt nhẽo: “The Land of Steady Habits” (dịch thử ra tiếng Việt lại
càng thấy nhạt nhẽo hơn: “Vùng đất của những thói quen cố hữu”!).

Có cái đề nhạt nhẽo như thế, song cuốn phim lại chứa một nội dung khá
sâu lắng. Phim do nam tài tử người Úc Ben Mendelsohn thủ vai chính.
Ông đóng vai một người đàn ông trung niên có một sự nghiệp tương đối
vững chắc trong ngành tài chánh, kiếm được nhiều tiền, nhưng đột ngột
quyết định về hưu non. Triệt để hơn nữa, ông cũng quyết định chia tay
với người vợ mà ông vẫn còn yêu thương để thử sống một cuộc đời mới,
không ràng buộc với công việc và gia đình.Hai vợ chồng có với nhau một
người con trai đã học xong đại học nhưng vẫn còn lông bông, không có
nghề nghiệp gì ổn định.

Cuốn phim vẽ ra một cuộc sống của người đàn ông vừa trở lại tình trạng
độc thân, sống một mình trong một căn nhà mới, rộng lớn và hoang vắng.
Ông gặp vài người phụ nữ trong những lúc tình cờ ở những nơi công
cộng, trải qua những mảnh tình vụng trộm, vội vàng với họ, rồi chia
tay. Cuốn phim còn có nhiều tình tiết liên quan đến nhân vật chính với
người vợ cũvà một gia đình khác, nhưng đó không phải là lý do để tôi
tiếp tục theo dõi(tôi thường bỏ dở một phim nếu thấy chán để đi tìm
phim khác).

Tôi xem đến hết cuốn phim vì nó lồng trong câu chuyện những phân cảnh
giữa người cha sống một mình và người con trai đã đến tuổi thành niên.
Người con trai, sau khi cha mẹ ly dị, vẫn ở chung nhà với mẹ. Tuy
nhiên, một hôm anh bị bà đuổi ra khỏi nhà vì tội trộm tiền của một
người khác để đi đánh bài. Anh kiếm được một chân đi giao hàng cho một
tiệm rượu nhưng không có chỗ nào tá túc.

Một đêm nọ, anh bấm chuông nhà của người cha để xin ngủ lại qua đêm.
Người cha tặng con một cái áo khoác đắt tiền, nhưng nhất quyết không
cho con ngủ lại. Ông bảo đã đến lúc người con phải có trách nhiệm với
bản thân, phải có một công việc đàng hoàng và một nơi ở riêng tư.
Người con trai giận dữ, bỏ chạy ra khỏi nhà, để lại món quà mà cha
mình vừa tặng.

Xem tới đó, tôi thấy trong lòng bồi hồi khôn tả. Tôi mường tượng nếu
đó là tình cảnh giữa tôi với con trai tôi thì không biết tôi sẽ xử trí
thế nào. Nhiều phần chắc là tôi sẽ để cho con mình ngủ lại! Tôi thấy
người Âu Mỹ sống nguyên tắc quá. Con cái lớn lên là cha mẹ “kick out”
chúng ra khỏi nhà. Họ sẵn sàng làm như vậy với con cái của mình, vì
những người đó cũng đã từng bị cha mẹ của chính họ đối xử với họ như
vậy rồi. Người Việt mình thì khác. Con cái lớn bao nhiêu, dưới mắt cha
mẹ vẫn là những đứa con còn nhỏ dại. Cho những đứa con đã khôn lớn vẫn
sống chung với mình đã đành, các bậc cha mẹ người Việt thậm chí còn
cho vợ chồng, con cái của chúng sống nữa khi chúng đã thành gia thất.
(Sau này tôi cũng biết được là trong văn hoá của các nước châu Mỹ La
Tinh, chuyện con cái sống chung với cha mẹ, dù độc thân hay đã có vợ
có chồng, cũng là chuyện bình thường như người Việt mình vậy).

Người đàn ông vai chính trong phim, cuối cùng cùng có một mối tình kéo
dài tương đối lâu hơn những mối tình thoáng qua trước đó. Ông gặp
người đàn bà này trong một bar rượu. Hai người mới đầu cũng trải qua
một sốva chạm đáng tiếc, tưởng đưa đến chỗ phải xa nhau.Tuy nhiên,
càng ngày hai người càng thấy gắn bó với nhau hơn.

Trong khi đó, người con trai cũng tìm được một công việc khá hơn việc
cũ, có tiền đủ để mướn một căn chung cư ở riêng và quyết định học tiếp
lên cao học. Một trong những cảnh cuối của cuốn phim là cảnh người cha
đến thăm con và nơi ở mới của con mình. Ông đem một ít đồ trang trí
mới mua cho nhà của mình đến cho con trai để làm quà mừng “nhà mới”
của con. Người con mời cha ở lại ăn tối với mình, nhưng người đàn ông
bảo đã có hẹn ăn tối với người bạn gái nên từ chối. Hai cha con ôm
nhau trong khoảnh khắc, rồi người cha từ giã con ra về.


Cuốn phim kết thúc bằng cảnh người đàn ông và cô bạn dùng cơm tối với
nhau. Rồi camera quay thẳng vào mặt người đàn ông, close-up. Hết phim.
Tôi thẫn thờ tắt ti-vi. Thẫn thờ không phải vì cảnh hai kẻ tình nhân
đang ăn uống với nhau, mà thẫn thờ vì bị ám ảnh cảnh hai cha con ôm
nhau, rồi người cha lững thững rời khỏi nhà của đứa con, ngồi vào xe
lái đi mất. Thốt nhiên, tôi bàng hoàng nghĩ rằng ngày đó rồi cũng sẽ
đến với mình. Tim tôi như thắt lại.

Đêm đã khuya lắm rồi. Dưới lầu, trên lầu, mọi người trong nhà dường
như đã ngủ say. Trong phòng riêng của mình, hai đứa con của tôi chắc
cũng đang có nhiều mộng đẹp. Bây giờ chúng hãy còn ở với vợ chồng tôi.
Rồi mai đây chúng cũng sẽ ra riêng như anh chàng trẻ tuổi trong cuốn
phim tôi vừa coi, như bao nhiêu nam thanh nữ tú trong xã hội Huê Kỳ
này. Vợ chồng tôi rồi cũng sẽ trở thành “những người trong tổ trống”
như nhiều bậc cha mẹ khác.

Tôi còn để cho trí tưởng tượng của mình đi xa hơn. Tôi hình dung ra
một cảnh y như trong xi-nê, trong đó tôi chính là người đàn ông trong
cuốn phim. Tôi lái xe đến dự một bữa tiệc đêm trước Giáng Sinh ở nhà
con gái tôi. Căn nhà bề thế, xinh xắn và sáng rực ánh đèn từ ngoài vào
trong.

Tôi bước vào một vùng tràn ngập âm thanh, ánh sáng, và cả mùi thơm của
thức ăn thoang thoảng trong căn nhà rộng lớn, với trần nhà cao vút. Vợ
chồng con gái tôi, vợ chồng con trai tôi, những đứa cháu của tôi vui
vẻ đến chào bố, chào ông nội, ông ngoại. Chúng tôi ôm nhau theo kiểu
Mỹ. Hai con tôi tíu tít hỏi thăm tôi. Tôi vừa trả lời các con, vừa
quay sang nựng nịu các cháu. Sau đó, tôi mang các món quà Giáng Sinh
của mình cho các cháu đến đặt dưới cây thông trang hoàng rực rỡ, với
một núi quà đã nằm sẵn dưới gốc cây. Rồi sau những món ăn ngon miệng,
những ly rượu nồng nàn, đã đến lúc chia tay và nói lời chúc mừng Giáng
Sinh. Lại ôm nhau, lại nói những câu sáo rỗng, rồi cuối cùng tôi cũng
lững thững ra xe y hệt như nhân vật chính trong cuốn phim. Tôi lái xe
vút đi trong đêm, dưới bầu trời lác đác vài vì sao lạc lõng. Trong
lòng ráo hoảnh, không biết nên buồn hay nên vui.

Tôi cố tình tưởng tượng ra cảnh này không có vợ tôi bên cạnh cho nó
“thảm” hơn một chút. Nếu có cảnh hai vợ chồng già cùng gậm nhấm nỗi
lòng này với nhau thì “cuốn phim” sẽ không đủ làm cho khán giả xúc
động. Thế rồi, sau những giây phút tưởng tượng, trái tim tôi cứ nặng
nề mãi, càng thấy khó ngủ hơn lúc trước. Tôi không can đảm đứng dậy
tắt cái đèn để trên table de nuit, sợ phải nằm thao thức trong bóng
tối với nỗi niềm mới mẻ này. Chắc để đèn sáng mà cố thiếp đi dễ hơn
chăng? Quả thật, chỉ một lúc sau tôi đã nhẹ nhàng chìm vào giấc ngủ
trong ánh đèn vẫn còn để sáng trong phòng.

Tuy nhiên, sau đó tôi lại giật mình choàng dậy vì có tiếng động trong
phòng tắm. Hoá ra vợ tôi từ dưới lầu lên, chắc là để xem chồng con ngủ
nghỉ ra sao trên lầu. Hẳn cô tưởng tôi quên tắt đèn trước khi ngủ nên
đã tắt giùm tôi. Tiện thể, cô vào phòng vệ sinh, bật đèn sáng trong
buồng tắm, không biết đã vô tình làm tôi thức dậy. Tôi nhắm mắt lại,
cố dỗ giấc ngủ mà cuối cùng rồi cũng đến.

Sáng hôm sau tôi không phải đi làm sớm. Buổi chiều tôi mới có lớp.
Trong các trường tôi dạy, có trường đã khai giảng, có trường còn nghỉ
hè, nên tôi vẫn còn khá thong thả. Tôi thức dậy với trái tim không đến
nỗi nặng nề như đêm qua, nhưng trong lòng vẫn còn bàng bạc nỗi buồn do
cuốn phim mang lại. Tôi muốn sáng hôm đó mình phải làm một điều gì
khác hơn mọi ngày để mong tìm lại được một chút thăng bằng trong tâm
trí. Tôi quyết định trở dậy, tắm rửa, thay quần áo để lái xe đến thư
viện gần nhà. Sáng hôm ấy thời tiết thật đẹp.

Tôi đến thư viện Huntington Beach, mặc dù thường không có thói quen
này. Thư viện nằm trong một khu vực khoáng đãng, cây cối sum sê. Vừa
bước ra khỏi xe, tôi đã thấy được một chút bình an trong lòng. Bên
trong thư viện càng làm tôi thấy sảng khoái hơn nữa. Bao bọc chung
quanh thư viện là những bức tường bằng kính, khiến cho người tả có cảm
tưởng là thế giới sách vở và thiên nhiên bên ngoài chừng như quyện vào
nhau. Trong thư viện cũng có cả những cái cây xoè nhiều tán lá xanh
mướt. Từ tầng thấp có thể nhìn phóng tầm mắt lên tầng cao, do cách xếp
đặt các cầu thang theo lối mở. Bầu không khí yên lặng chung quanh càng
làm tôi thấy nhẹ nhõm trong lòng.

Tôi ngồi xuống trước một cái computer, bắt đầu tìm tên một vài cuốn
sách trong thư mục. Từ lâu nay tôi vẫn muốn kiếm tập thơ của Kahlil
Gibran, nhà văn, nhà thơ Mỹ gốc Liban. Tôi thích tác giả này qua những
câu ông nói có tính cách triết lý sâu xa mà cũng gần gũi với cuộc
sống. Tìm được mã số của một tập thơ của ông, tôi đến dãy kệ gần đó để
lấy sách. Ngồi ngó ra khoảng sân rộng xuyên qua bức tường kính to lớn,
tôi lật từng trang trong tập thơ, đọc lướt qua những bài thơ bằng
tiếng Anh của Gibran. Đến một trang, ánh mắt tôi chợt dừng lại ở những
câu dưới đây mà tôi xin mạo muội dịch thoát qua tiếng Việt:

“Con cái của chúng ta không phải thật là con của chúng ta.

Chúng là con của Cuộc Sống, của ước vọng được chính là Cuộc Sống.

Chúng đến qua chúng ta chứ không phải là từ chúng ta.

Và tuy chúng ở cùng chúng ta, chúng lại không thuộc về chúng ta.

Chúng ta có thể cho chúng tình thương, nhưng không thể cho chúng tư
tưởng của mình.

Vì chúng đã có tư tưởng riêng của chúng.

Chúng ta có thể chứa thân thể của chúng trong nhà, nhưng linh hồn của
chúng thì không thể.

Vì những linh hồn đó chỉ trú ngụ trong căn nhà của ngày mai, nơi chúng
ta không thể đến thăm, ngay cả trong giấc mơ.

Chúng ta có thể cố gắng để giống chúng, nhưng đừng tìm cách làm chúng
giống chúng ta...”

(Trích bài thơ “Your Children”, Kahlil Gibran, 1883-1931)

Bài thơ còn dài, nhưng tôi không đọc tiếp nữa. Tôi gấp sách lại, nhắm
mắt, cố gắng không suy nghĩ gì. Tôi cảm thấy mình như tan biến đi
trong cái yên ả của không gian bao la trong thư viện, trong cái mùi
ngai ngái quen thuộc của sách vở. Một lúc sau, tôi đem tập thơ trả về
vị trí của nó trên kệ. Tôi trở lại cái bàn có dãy computer, ngồi xuống
trước một cái. Tôi thử tìm trên internet về đề tài con cái, nhất là
của các tôn giáo, xem có gặp thêm được những lời nào hay ho về chuyện
này hay không. Tìm kiếm hồi lâu, tôi thấy được câu dưới đây trong một
website của đạo Tin Lành (xin dịch thoát):

“Các bậc cha mẹ chúng ta sống bình thản như thể con cái của mình là
thuộc về mình— nhưng không, chúng thuộc về Thượng Đế.”

Và một lời dạy khác của Đức Phật:

“Trên bình diện tâm linh, cha mẹ không sở hữu con cái, thậm chí cũng
không phải là những người sáng tạo ra con cái. Họ chỉ là những phương
tiện cho những linh hồn của những đứa con mượn chỗ đầu thai trên thế
gian.”

ÀØ ra thế. Hoá ra Phật, Chúa hay nhà thơ gì cũng nói một điều giống
nhau. Thật là đơn giản và rõ ràng: Con cái không thuộc về cha mẹ.
Chúng ta lúc nào cũng muốn kiểm soát con cái, muốn chúng sống cuộc đời
chúng ta vẽ ra cho chúng sống. Chúng ta muốn con cái lúc nào cũng quây
quần bên mình mà quên đi rằng đó chẳng khác nào làm cho chúng phải
sống cảnh cá chậu chim lồng, thay vì phải đem lại cho chúng cái quyền
làm cá nước chim trời.

Tôi rời thư viện, bước ra bên ngoài. Nắng đã lên cao, không khí mát
dịu, thoang thoảng nhiều mùi hương pha trộn của những loài hoa lá nào
đó. Bầu trời xanh ngắt, chỉ có vài đám mây trắng nhỏ. Một vài con chim
nhỏ từ đâu bỗng bay vội lên cao, rồi lại sà xuống thấp. Tôi tưởng
tượng rằng những chú chim đó là các con của tôi, các con của những bậc
cha mẹ khác. Những con chim ra ràng, vui vẻ, háo hức bay vào không
gian rộng lớn để tận hưởng tự do của trời đất bao la, cùng những điều
thú vị bất ngờ mà cuộc sống đang chờ đợi để mang lại cho chúng.

Trần C. Trí



1 nhận xét:

Tâm Sự Từ Nguyên Và Bài "MẮT NHÒA QUÊ MẸ "

 Cùng quý thân hữu, Tình mẹ con vốn bất diệt và không có thơ nhạc nào đủ sức ca tụng. Trong khi người ta lao đầu vào các cuộc chiến bất tận,...