Giai Thoại Văn Chương :
THI TIÊN LÝ BẠCH
(701-762)
Truyện kể, vào triều đại của
Huyền Tôn hoàng đế đời Đường, có một tài tử họ Lý 李, tên Bạch 白, tự là
Thái Bạch 太白, người đất Cẩm Châu (Tứ Xuyên), vốn là cháu 9 đời của Tây
Lương Võ Chiêu Hưng Thánh Hoàng Đế Lý Hạo. Bà mẹ của Lý nằm mơ thấy sao
Trường Canh rơi vào bụng mà sanh ra Lý; vì sao Trường Canh là Thái Bạch
Kim Tinh, nên mới lấy tên Bạch và tự là Thái Bạch để đặt cho Lý. Lý sinh
ra vốn đã mi thanh mục tú, cốt cách phi phàm; Mười tuổi đã làu thông
kinh sử, xuất khẩu thành thơ, mọi người đều ca ngợi và xưng tụng là thần
tiên giáng thế, nên mới đặt cho cái ngoại hiệu là Lý Trích Tiên 李謫仙 (Là
tiên trên trời được trích giáng xuống trần gian). Có thơ của Thi Thánh
Đỗ Phủ chứng thực : 昔年有狂客, Tích niên hữu cuồng khách,
號爾謫仙人。 Hiệu nhĩ trích tiên nhân.
筆落驚風雨, Bút lạc kinh phong vũ,
詩成泣鬼神! Thi thành khấp qủi thần !
Có nghĩa :
Năm xưa có khách ngông cuồng,
Xưng là trời giáng xuống trần Trích Tiên.
Hưu bút mưa gió kinh thiên,
Thơ thành thần thánh qủi tiên cũng gờm !
Lý Bạch lại tự xưng mình là Thanh Liên Cư Sĩ 青蓮居士 (Cư sĩ hoa sen
xanh) để tỏ rõ cho sự thanh cao của mình, không cầu danh lợi, ngao du
khắp bầu trời để uống hết rượu ngon của thiên hạ. Nghe đồn Ô Trình Tửu
của Hồ Châu rất ngon, Lý bèn tìm đến Hồ Châu để uống cho thỏa thích.
Đang lúc cao hứng ngâm thơ vang vang , chợt có Ca Diếp Tư Mã đi ngang
qua quán rượu bèn cho tùy tùng vào hỏi xem là ai. Lý nghe hỏi bèn thuận
miệng đọc luôn bốn câu thơ :
青蓮居士謫仙人, Thanh Liên Cư Sĩ trích tiên nhân,
酒肆逃名三十春。 Tửu tứ đào danh tam thập xuân.
湖州司馬何須問, Hồ Châu Tư Mã hà tu vấn,
金粟如來是後身。 Kim túc Như Lai thị hậu thân !
Có nghĩa :
Thanh Liên Cư Sĩ trích tiên đây,
Quán rượu ẩn danh chục năm nay.
Tư Mã Hồ Châu sao khéo hỏi,
Như Lai kim túc hậu thân nầy !
Lý đùa với Tư Mã Hồ Châu rằng : Ngài là Ca Diếp là hậu thân của Phật Thích ca, còn ta chính là Như Lai đây ! Ca Diếp Tư Mã nghe xong thất kinh hỏi :"Chả lẽ đây là Lý Trích Tiên của đất Thục mà ta đã nghe danh bấy lâu nay ?!" Bèn mời Lý về nha môn cùng uống rượu với nhau trên mười hôm. Ca Diếp Tư Mã khuyên Lý đi về hướng Trường an để có dịp tiến thân. Lý đáp là triều chính hỗn lọạn, quan trường nhũng nhiễu tham ô, khó lòng mà tiến thân ngay thẳng cho được. Nhưng Ca Diếp vẫn khuyên là :"Với tài năng của các hạ, lo gì đất Trường an không có người tiến cử !" Lý Bạch nghe theo, bèn lần mò về hướng Trường an.
Năm Thiên Bảo nguyên niên đời Đường (742). Một hôm, đang dạo chơi ở
Tử Cực cung thì gặp phải Hàn Lâm Học Sĩ Hạ Tri Chương. Sau khi cùng
trao đổi tên họ, cùng ngưỡng mộ nhau. Hạ Tri Chương đã cởi túi kim điêu
của vua ban mà đổi rượu để cùng uống với nhau đến khuya, rồi lại cùng
nhau kết nghĩa kim lan, mặc dù Hạ lớn hơn Lý đến 40 tuổi. Từ đó, mỗi
ngày đều cùng nhau uống rượu ngâm thơ.
Thời gian thấm thoát đã đến kỳ khảo thí. Hạ Tri Chương bèn viết một
phong thư đưa cho Lý Bạch giới thiệu Lý với quan chánh phó chủ khảo năm
đó là Thái Sư Dương Quốc Trung và Thái Úy Cao Lực Sĩ. Chẳng ngờ hai tên
tham quan nầy cứ ngỡ là Hạ đã ăn tiền hối lộ của Lý rồi gởi gắm cho
mình, nên cùng nổi giận và cùng hẹn nhau, nếu gặp tên Lý Bạch thì đánh
rớt ngay chớ chẵng cần biết văn chương hay dở gì cả ! Đến kỳ thi, khi
giở đến bài của Lý Bạch thì Dương Quốc Trung đã gọi đến phê rằng :"Tài
học như thế nầy, chỉ đáng mài mực cho ta mà thôi !", bèn chuyển bài qua
cho Cao Lực Sĩ. Sĩ lại khinh bạc hơn nữa phê rằng :"Mài mực còn chưa
đáng, chỉ xứng đáng để tháo giày cho ta mà thôi !". Đoạn ra lệnh cho
lính gát tống cổ Lý Bạch ra khỏi phòng thi. Lý Bạch ôm hận thề rằng
:"Sau nầy nếu ta được đắc ý, thì sẽ bắt hai tên nầy mài mực và tháo giày
cho ta thì mới nguôi cái hận trong lòng nầy ! Hạ Tri Chương biết
chuyện, bèn an ủi bạn rằng :"Thôi thì hiền đệ cứ ở đây ẩn nhẫn đợi khoa
thi của 3 năm sau, biết đâu chừng đó sẽ gặp được các quan chủ khảo tốt
hơn".
Ngày tháng thoi đưa, bỗng một hôm có sứ thần của Phiên bang mang
quốc thư đến. Khi lâm triều mở quốc thư ra tuyên độc, cả triều đều ngẩn
ngơ vì không đọc được chữ nào cả. Quan Hàn Lâm qùi xuống tâu rằng :"Đây
là chữ của Phiên bang, chúng thần học thức thiển cận, không thể đọc được
!" Nhà vua bèn lệnh cho các quan chủ khảo năm đó đọc thư. Dương Quốc
Trung và Cao Lực Sĩ đều có mắt như mù, miệng câm như hến, không đọc được
chữ nào cả. Huyền Tôn bèn quở rằng :"Uổng công các khanh là những bậc
hiền tài, mũ cao áo rộng. Không đọc được thư nầy thì làm sao mà xử lý
phát lạc sứ thần cho được đây? Nay trẫm hạn trong vòng 3 ngày không ai
đọc được thư nầy thì đều phải ngưng bổng lộc, 6 ngày thì ngưng chức, 9
ngày thì đều đưa hình ty hỏi tội. Trẫm sẽ chọn nhân tài khác mà khuông
phò xã tắc !" Thánh chỉ ban xuống, các quan đều lặng thinh chẳng dám dị
nghị gì cả. Nhà vua lại càng tỏ vẻ lo âu hơn nữa.
Lý Bạch bị đuổi khỏi phòng thi
Tan chầu, về lại nhà Hạ Tri Chương kể lại mọi chuyện cho Lý Bạch
nghe. Nghe xong, Bạch cả cười bảo rằng :"Rất tiếc là khoa rồi đệ không
được chấm đậu để cùng phân ưu với thiên tử !" Hạ Tri Chương nghe xong
thất kinh hỏi lại :" Hiền đệ học cao hiểu rộng, đọc được Phiên thư sao ?
Ngày mai ta sẽ bảo tấu với bệ hạ". Hôm sau vào triều tâu lên vua rằng
:"Nhà thần có một tú tài họ Lý tên Bạch, học cao hiểu rộng, có thể đọc
hiểu được Phiên thư". Vua bèn cử sứ giả đến phủ của Hạ Tri Chương mời Lý
Bạch vào chầu. Bạch nói với thiên sứ rằng :"Thần là người áo vải phương
xa, không quan không tước, vào chầu vua e sẽ làm mất thể diện của các
quan đại thần học rộng hiểu nhiều ở trong triều chăng
?". Sứ về tâu lại, nhà vua bèn hỏi Hạ Tri Chương là chuyện như thế nào ?
Hạ tâu rằng :"Lý Bạch văn chương cái thế, học vấn uyên thâm, chỉ vì
khoa thi vừa qua bị khảo quan sỉ nhục, đuổi khỏi trường thi. Nay áo vải
vào chầu, trong lòng cảm thấy hổ thẹn, mong bệ hạ hãy ban ân điển." Nhà
vua bèn y tấu, phong cho Lý Bạch là Tiến Sĩ cập đệ, áo tía đai vàng, mão
ô sa hốt ngà voi và cử Hàn Lâm Học Sĩ Hạ Tri Chương cùng đi rước Lý Bạch vào chầu.
Sau khi tung hô vạn tuế để tạ ơn, nhà vua thấy Lý Bạch tướng mạo
phi phàm như thần tiên giáng thế, trong lòng rất vui phán rằng :"Nay có
Phiên bang mang quốc thư đến, nhưng không có người biết đọc. Trẫm triệu
khanh đến để cùng phân ưu ". Bèn truyền thị thần mang Phiên thư đến. Lý
Bạch đọc qua một lượt, xong mới mĩm cười hướng về nhà vua mà dịch lớn
lên cho mọi người cùng nghe là :
"Đại
Khả Độc của nước Bột Hải thư đến cho Quan Gia triều Đường : Từ lúc ông
chiếm Cao Ly, sát cạnh biên giới nước tôi, nên lính biên khu thường
xuyên xâm lấn bờ cỏi nước tôi, tôi nghĩ đó là do ý của ông mà ra. Nay
tôi không đừng được nữa, phái sứ đến để giảng hòa, xin ông cắt 176 thành
của nước Cao Ly mà nhường cho nước tôi. Tôi sẽ tặng cho ông những vật
trân quí sau đây : Thỏ của núi Thái bạch, Vải côn bố của Hải Nam, Trống
của San Thành, Lộc của Phù Dư, Heo của Mạc Hiệt, Ngựa của Suất Tân, Cừu
của Ốc Châu, Cá chép của sông My Đà, Mân của Cửu Đô và Lê của xứ Lạc Du,
ông đều có cả ! Nếu ông vẫn không đồng ý, thì tôi sẽ khởi binh tới đánh nhau, chừng đó thắng thua sẽ quyết !"
Vua và các quan nghe xong đều kinh hãi trong lòng, im lặng nhìn
nhau mà không biết phải nói gì. Riêng nhà vua thì lo lắng ra mặt, trầm
ngâm giây lát bèn hỏi các quan về kế sách để đối phó lại. Văn võ hai
hàng đều im thinh thích. Hạ Tri Chương quỳ xuống tâu rằng :"Sao bệ hạ
không hỏi xem Lý Bạch có kế sách chi để đối phó hay không
?" Vua bèn hỏi ý Bạch. Bạch tâu rằng :"Bệ hạ không phải lo lắng, ngày
mai cứ triệu Phiên sứ vào chầu, thần sẽ đáp trả Phiên thư bằng chính
ngôn ngữ của Phiên bang, quở trách Khả Độc của Phiên Quốc, bắt ông ta
phải sai sứ đến cống nạp và xin hàng". Nhà vua bèn hỏi :"Khả Độc là
người nào?" Lý Bạch đáp rằng :" Người Bột Hải gọi vua là Khả Độc, người
Hồi Hột gọi vua là Khả Hãn, người Thổ Phồn gọi vua là Tán Phổ, người Lục
Chiếu xưng vua là Chiếu, người Ha Lăng xưng vua là Tất Mạc Uy. Mỗi bộ
tộc đều theo phong tục của mình mà gọi tên vua ". Nhà vua nghe Bạch ứng
đối lưu loát, học cao hiểu rộng trong
lòng rất đẹp, bèn phong ngay cho Lý Bạch chức Hàm Lâm Học Sĩ, thết tiệc
tại kim loan điện có cung tần thể nữ ca múa hầu hạ chuốc rượu. Bạch
uống đến say mèm, vua bèn cho nội thị đở vào bên trong trắc điện để nghỉ
ngơi.
Canh năm hôm sau, khi trống canh năm vừa dứt thì hai bên văn võ bá quan đã
chỉnh tề nghênh tiếp nhà vua thăng điện. Vua cho triệu Lý Bạch thì Lý
hãy còn kèm nhèm chưa tỉnh rượu hẵn. Khi nội thị bưng canh giải rượu
lên, thấy còn quá nóng, nhà vua lại đích thân cầm thìa khuấy cho mau
nguội, rồi mới ban cho Lý uống. Các quan trông thấy nhà vua ưu ái Lý
Bạch làm vậy đều nửa mừng nửa lo; mừng vì nhà vua biết chiêu hiền đãi
sĩ, lo vì không biết Lý Bạch có làm nên cơm cháo gì không. Khi Bạch đã
yên vị, nhà vua cho triệu sứ thần vào. Sau khi triều bái tung hô xong,
Lý Bạch bèn đứng lên đi đến trước ngai vàng với áo tía mũ đen đứng trên
trông xuống, phiêu nhiên như thần tiên giáng thế, tay cầm Phiên thư mở
ra đọc to từng chữ một. Phiên sứ thất kinh đến há hốc cả mồm. Lý Bạch
thay vua lớn tiếng quở rằng :"Tiểu bang sao dám thất lễ, nay thánh
thượng độ lượng với hồng phước như trời, tha không chấp nhất, hãy nghe
đáp chiếu của ta đây !" Phiên sứ nghe quở, run rẩy quỳ dưới bệ không dám
ngẩn lên.
Nhà vua sai bày giường thất bảo bên cạnh ngai vàng, dùng nghiên
mực bằng bạch ngọc, quản bút bằng ngà voi và thỏi mực bằng độc long
hương thảo và giấy hoa tiên kim hoa ngũ sắc. Bày biện chỉnh trang xong
đâu đó bèn ban cẩm đôn cho Lý Bạch ngồi cạnh ngai vàng để thảo chiếu
thư. Bấy giờ Bạch mới tâu rằng :"Giày của thần không được sạch, e làm
bẩn ngự sàng". Vua bèn sai nội thị đến cởi giày cho Lý. Lý được dịp lại
tâu rằng :"Thần còn có một thỉnh cầu, dám xin bệ hạ tha cho tội ngông
cuồng thì thần mới dám tâu lên". Vua phán :"Khanh cứ nói, có thất thố
trẫm cũng không bắt tội". Lý tâu rằng:"Trong kỳ xuân thí vừa qua thần bị
hai quan chánh phó chủ khảo đánh rớt và nhục mạ rồi đuổi khỏi phòng
thi; nay hai người đó đứng đây thần không sao thi thố văn tài được nữa,
dám xin bệ hạ lệnh cho Thái sư Dương Quốc Trung nâng nghiên mài mực và
Thái Úy Cao Lực Sĩ tháo giày cho thần, để thần lấy lại lòng tự hào của
kẻ sĩ mà thay mặt bệ hạ thảo chiếu thư trấn áp Phiên bang, mong bệ hạ ân
chuẩn để thần không làm nhục mệnh vua !". Đến nước nầy nhà vua đành
phải chìu theo ý của Lý, truyền chỉ "Thái sư Dương Quốc Trung mài mực,
Thái Úy Cao Lực Sĩ tháo giày" để cho Lý Bạch thảo hách man thư. Lý bạch
vô cùng đắc ý vì đã trả được cái hận trước đây, tay trái vuốt râu, tay
phải hưu bút, chỉ trong một loáng đã thảo xong chiếu chỉ cho Phiên quốc.
Trình lên nhà vua, vua trông thấy cũng giật mình, vì những nét chữ bay
bướm cong queo giống y như thư của Phiên bang gởi đến, trong lòng rất
vui, nghĩ rằng :"Với tài hoa nầy, cho Thái Sư mài mực, Thái Úy tháo giày cũng xứng đáng". Bèn truyền cho Lý Bạch đứng trước ngai vàng đọc lớn chiếu thư cho sứ thần và mọi người cùng nghe :
"Đại
Đường Khai Nguyên Hoàng đế chiếu dụ đến Khả Độc nước Bột Hải : Từ xưa
đến nay, trứng vốn không chọi đá , xà không thể đấu với long. Bổn triều
ứng thiên khai vận, ban ân tứ hải, binh cường tướng mạnh, giáp cứng giáo
dài. Vua Hiệt Lợi bội ước mà bị bắt, Tây Hạ Lộng Tán đúc ngổng mà thề
nguyền, nước Tân La dệt gấm mà ca tụng, Thiên Trúc cống chim muông biết
nói, Ba Tư nộp rắn biết bắt chuột, Phất Ma tấn cống chó biết chăn ngựa,
Lâm Ấp cống ngọc dạ quang, Cốt Lợi Cán nộp Ngựa qúy, Nê Bà La hiến rượu
ngon. Chẳng qua cũng chỉ là mến đức sợ uy nước lớn, muốn hòa bình cầu
an. Cao Ly vì chống lại thiên triều nên lập quốc 9 trăm năm bị tiêu diệt
trong một buổi, đó cũng vì không biết thời cơ mà chịu họa vong quốc.
Nay nước Bột Hải của các ngươi, vốn là thuộc quốc của nước Cao Ly, chẳng
qua cũng chỉ bằng một quận nhỏ của nước ta mà thôi, lại dám ngang nhiên
thách thức. Phải biết là khi quân thiên triều ập đến thì ngàn dâm máu
đổ thịt rơi, vua Khả Độc sẽ bị bắt, nước cũng sẽ mất như Cao Ly. Nay
thánh chúa khoan dung độ lượng không chấp nê cho sự ngông cuồng lần nầy.
Phải biết hối lỗi mà sớm ngày nộp cống xưng thần, cho bốn bể được thanh
bình, nhân dân thôi đồ thán. Hãy tam tư suy nghĩ cho cẩn thận để đừng
làm trò cười cho các lân bang. Nay ban chỉ dụ. khâm thử !"
Dương Thái Sư mài mực, Cao Thái Úy tháo giày.
Sứ thần Bột Hải quỳ nghe chỉ dụ mà mặt như chàm đổ, cúi đầu nhận
chiếu chỉ rồi tung hô vạn tuế mà lui ra. Khi ra đến cửa môn bèn hỏi nhỏ
quan Nội Hàn rằng :"Người thảo và đọc chiếu chỉ khi nảy là ai, mà Thái
sư phải mài mực và Thái Úy phải cởi giày vậy?" Quan Nội Hàn đáp rằng
:"Đó là Hàn Lâm Học Sĩ Trích tiên Lý Thái Bạch. Lý học sĩ là thần tiên
trên trời trích giáng xuống, còn Thái Sư và Thái Úy chỉ là quan chức của
phàm trần, làm sao mà so bì với Trích tiên cho được !" Phiên sứ nghe
thế về nước báo lại với vua Khả Độc là thiên triều có thần tiên xuống
giúp. Khả Độc xem chiếu thất kinh, bàn bạc với trăm quan thảo hàng biểu
xưng thần và hàng năm nộp cống, không dám dấy động can qua nữa.
Từ đó, nhà vua rất kính trọng và yêu mến Lý Bạch, định phong cho
quan chức trọng hậu, nhưng Lý chỉ muốn tiêu dao tự tại, nên chỉ xin được
có rượu uống hằng ngày là mãn nguyện rồi. Nhà vua biết Lý là người
thanh cao, không màng vinh hoa phú qúy, nên hằng ngày ban yến tiệc trong
cung và lưu lại trong kim loan điện để nghị chính, ân sủng ngày một gia
tăng. Một hôm đang lang thang trên đường phố Trường an bỗng nghe thấy
tiếng phèng la vang dậy, một đoàn đao phủ thủ áp giải một tù nhân đem ra
pháp trường hành quyết. Trong tù xa là một võ tướng mi thanh mục tú,
tướng mạo hiên ngang. Hỏi ra mới biết đó là Quách Tử Nghi, một võ tướng
thất cơ từ Tinh Châu giải về Trường an để trảm quyết. Lý Bạch thấy Quách
Tử Nghi tướng mạo phi phàm bèn chặn tù xa lại, bảo rằng mình sẽ vào
cung bảo tấu với thiên tử. Toán đao phủ nhận biết đây là Lý học sĩ người
thảo Hách Mang Thư hiện đang ở trong cung vua, nên bằng lòng chờ đợi.
Lý bay ngựa về cung yết kiến thiên tử, vì là tội nhẹ nên vua ban ngay
một đạo ân xá. Lý lại bay ngựa ra pháp trường tha cho Quách Tử Nghi,
khuyên nhủ là hãy cố gắng lập công chuộc tội để kiến công lập nghiệp.
Quách Tử Nghi bái tạ ra đi và hứa sẽ kết cỏ ngậm vành để báo đáp.
Lúc bấy giờ hoa Mộc Thược Dược cuả xứ Dương Châu cống nạp vào trong
cung đã nở rộ; trong cung gọi tên là hoa Mẫu đơn với bốn màu rực rỡ là
trắng, hường, đỏ, tía. Thiên tử di giá đến đình Trầm hương cùng Dương
Quý Phi thưởng ngoạn với một đám Lê viên tử đệ cùng múa ca hát xướng.
Nhà vua cảm khái bảo rằng :" Trước phi tử đẹp như hoa và trước hoa đẹp
như tranh thế nầy, sao ta lại cứ hát những bài nhạc cũ thế kia. Hãy mau
truyền Lý học sĩ đến để viết nên những ca khúc mới cho hợp người hợp
cảnh !" Trưởng nhóm nhạc của Lê Viên là Lý Qui Niên tuân chỉ đi tìm, nội
thị cho biết là Lý Học sĩ đã ra phố Trường an để uống rượu rồi. Lý Qui
Niện vội vả dắt theo một đoàn tùy tùng đi tìm Lý Bạch, khi đi ngang qua
một tửu lâu cao lớn nghe có tiếng người ngâm rằng :
三杯通大道, Tam bôi thông đại đạo,
一斗合自然。 Nhất đấu hợp tự nhiên.
但得酒中趣, Đản đắc tửu trung thú,
勿為醒者傳。 Vật vi tỉnh giả truyền !
Có nghĩa :
Ba ly thông qua đạo lớn,
Một đấu hợp với tự nhiên.
Chỉ cần được vui trong rượu,
Mặc cho kẻ tỉnh tuyên truyền !
Giọng điệu nầy không phải của Lý Học Sĩ thì còn là ai nữa ! Bèn đi
thẳng lên lầu truyền lệnh vua triệu hồi về cung. Mọi người nghe có chiếu
chỉ của vua đều vô cùng kinh hãi, riêng Lý Bạch đã "xỉn" quá rồi,
giương đôi mắt thất thần nhìn Lý Qui Niên rồi đọc một câu thơ của Đào
Uyên Minh :" Ngã túy dục miên quân thả khứ 我醉欲眠君且去!(Có nghĩa : Ta say
muốn ngủ người đi đi !) rồi nhắm mắt ngủ ngay. Lý Qui Niên lắc đầu chào
thua, đưa tay xuống lầu ngoắc một cái, cả toán thị vệ bèn đổ lên lầu kè
Lý Học Sĩ xuống đưa lên ngựa ngũ hoa thông trực chỉ về cung. Vì Lý Bạch
còn quá say nên nhà vua cho cởi ngựa vào thẳng Ngũ Phụng
lâu trực chỉ vào cung cấm. Lý Qui Niên phải đi theo đở Lý Bạch đi vào
hậu cung ngang qua Hưng Khánh trì đến bên Trầm Hương Đình là nơi nhà vua
và quý phi đang ngắm hoa mẫu đơn. Thấy Lý Bạch còn qúa say vua cho đặt
tạm ngự sàng bên điện để Lý nằm, thấy Lý chảy nước dãi vua còn đưa tay
áo long bào ra lau; Qúy phi tâu rằng :"Thiếp nghe nói phun nước lạnh vào
mặt có thể làm cho tỉnh rượu". Vua bèn cho cung nữ ngậm nước lạnh phun
vào mặt Lý Bạch. Lý thấm lạnh giật mình tỉnh ra, nhìn thấy vua và phi
tần chung quanh, thất kinh quỳ xuống thỉnh tội. Vua đỡ dậy phán rằng
:"Nay trẫm cùng phi tử cao hứng ngắm hoa, không thể không có lời hát
mới, phiền khanh soạn cho ba khúc Thanh Bình Điệu để cho Lê Viên tử đệ
phổ nhạc mừng hoa Mẫu đơn vừa mới nở." Lý Bạch thấy khung cảnh Trầm
Hương Đình rất nên thơ với phi tần giai lệ, với danh hoa khuynh quốc,
nên mặc dù còn ngây ngất men say cũng cất bút viết ngay ba bài Thanh
Bình Điệu nổi tiếng sau đây :
清平調 (其一): THANH BÌNH ĐIỆU (kỳ 1):
雲想衣裳花想容, Vân tưởng y thường hoa tưởng dung,
春風拂檻露華濃。 Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng.
若非群玉山頭見, Nhược phi quần ngọc sơn đầu kiến,
會向瑤台月下逢。 Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng !
Có nghĩa :
Mây ngỡ xiêm y hoa ngỡ mày,
Gió xuân phe phẩy má hồng say.
Không là Quần Ngọc non tiên thấy,
Cũng chốn Dao Đài gặo gỡ ai !
清平調 (其二): THANH BÌNH ĐIỆU (kỳ 2):
一枝紅豔露凝香, Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,
雲雨巫山枉斷腸。 Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường.
借問漢宮誰得似? Tá vấn Hán Cung thùy đắc tự ?
可憐飛燕倚新妝。 Khả lân Phi Yến ỷ tân trang !
Có nghĩa :
Một cành hoa đẹp ngậm sương thơm,
Mưa móc Vu Sơn cũng dỗi hờn.
Dám hỏi Hán cung ai dám sánh,
Thương nàng Phi Yến mới soi gương.
清平調 (其三): THANH BÌNH ĐIỆU (kỳ 3):
名花傾國兩相歡, Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
長得君王帶笑看。 Trường đắc quân vương đái tiếu khan.
解釋春風無限恨, Giải thích xuân phong vô hạn hận,
沉香亭北倚欄杆。 Trầm hương đình bắc ỷ lan can !
Có nghĩa :
Người xinh hoa đẹp vẹn đôi đàng,
Thỏa ý quân vương ngắm chẳng màng.
Giải hết gió xuân không hận oán,
Đình Trầm Hương bắc tựa lan can !
Ý mới lời thanh hợp tình hợp cảnh, nhà vua đọc xong khen không
ngớt lời, bèn truyền cho Lý Qui Niên cùng chúng Lê Viên đệ tử phổ từ vào
nhạc. Tiếng tơ tiếng trúc, tiếng đàn sáo tiêu thiều dìu dặt vang vang,
mọi người đều hân hoan thưởng thức. Tiếng ngọc địch cuối cùng vừa dứt
thì Qúy Phi đến cúi mình đáp tạ ơn vua. Nhà vua cười phán
rằng :"Chớ tạ trẫm, hãy qua bên kia mà tạ Lý Học Sĩ kìa !" Qúy Phi bèn
dùng ly thất bảo, đích thân rót rượu bồ đào của Tây Lương cống nạp, rồi
truyền cung nữ ban tặng cho Lý Bạch. Từ đó về sau mỗi lần trong cung có
nội yến đều có mặt Lý Bạch, nên mối tình tài tử giai nhân dần dà nảy
sinh, Qúy Phi thường liếc mắt đưa tình, nhưng Lý Học Sĩ thì cứ làm ngơ,
chỉ biết suốt ngày chìm đắm trong men rượu.
Lại nói về Thái Úy Cao Lực Sĩ lòng luôn ôm hận vì phải cởi giày cho
Lý Thái Bạch trước mặt triều thần, nên luôn tìm dịp để trả thù rửa hận.
Một hôm, nghe Dương Quý Phi ngâm nga ba bài Thanh Bình Điệu của Lý Bạch,
mới thừa dịp nói rằng :"Thần cứ tưởng là nương nương phải căm hận lắm
mới phải, sao lại cứ tán thưởng ngâm nga !?" Quý Phi hỏi tại sao, thì
Cao Lực Sĩ đáp rằng :" Câu thơ "Khả lân Phi Yến ỷ tân trang" rõ ràng là
đang ví nương nương với Triệu Phi Yến một cách mĩa mai. Nương nương
không cảm nhận được hay sao ?" Thì ra Triệu Phi Yến là người đẹp eo thon
nhỏ nhắn, thân hình mảnh khảnh đến nổi có thể nhảy múa trên lòng bàn
tay của lực sĩ được; còn Dương Quý Phi là ngườì đẹp khoẻ mạnh có da có
thịt chớ không ẻo lả chút nào cả. Đem hai người so sánh nhau thì có vẻ
mĩa mai hài hước thật sự (Thực ra, Lý Bạch chỉ so sánh cái vẻ đẹp của
khuôn mặt chớ không so sánh cả thân hình. Câu "Khả lân Phi Yến ỷ tân
trang 可憐飛燕倚新妝" ý là : Nàng triệu Phi Yến mới trang điểm xong cũng phải
chào thua !) Thêm một ẩn ý khác quan trọng hơn là Triệu Phi Yến lén Hán
Thành Đế để tư thông với Yến Xích Phụng là một hầu dịch đẹp trai khỏe
mạnh, còn trước mắt thì Dương Qúy Phi lại đang tư
thông với con nuôi là tướng An Lộc Sơn. Dương Qúy Phi nghe Cao Thái Úy
gợi ý nhắc nhở nên thấm đòn đâm ra oán ghét và xa lánh Lý Bạch, nên
trước mặt Huyền Tôn thường chê trách hành vi phóng túng buông thả của Lý
làm rối loạn nề nếp trong cung. Nhà vua thấy Quý Phi không thích, nên
không thường xuyên triệu Lý vào cung nữa. Lý Bạch lang thang ở Trường An
cùng các bạn rượu là Hạ Tri Chương 賀知章, Trương Húc 张旭, Lý Thích Chi
李适之, Tiêu Toại 焦遂, Lý Tấn 李琎, Thôi Tông Chi 崔宗之 và Tô Tấn 苏晋, xưng là
"Trường An ẨM TRUNG BÁT TIÊN 飲中八仙" (Tám ông tiên trong rượu ở đất Trường
An).
Dần dà rồi cũng nhớ nhà, Lý Bạch xin với vua cho mình về quê. Huyền
Tôn phán rằng :"Khanh ý chí cao nhã, tạm thời về quê, nếu có việc cần
trẫm sẽ cho triệu hồi. Nhưng khanh đã có công với trẫm, đâu thể nào tay
trắng hoàn hương, nếu khanh có thỉnh cầu chi cứ tâu trình cho trẫm
biết". Bạch tâu rằng :"Thần chẳng có thỉnh cầu chi cả, chỉ mong mỗi ngày
đều có rượu để uống cho say là đủ rồi !" Huyền Tôn bèn tặng cho Lý bạch
một miếng kim bài, trên có ngự thư viết rằng : Sắc phong Lý Bạch là
THIÊN HẠ VÔ ƯU HỌC SĨ, tiêu dao lạc phách TÚ TÀI. Hễ gặp phường quán thì
được uống rượu, gặp ngân khố thì được chi tiền. Phủ cấp ngàn quan,
huyện cấp năm trăm. Văn võ quân dân nếu ai thất kính thì đều phạm tội vi
chiếu". Lại ban tặng ngàn lượng vàng ròng, cẫm bào ngọc đái, long mã
yên vàng và tùy tùng hai mươi người. Lý Bạch khấu đầu tạ ơn, nhà vua lại
tặng hai đóa kim hoa, ba ly ngự tửu và cho lên ngựa trước cửa Kim loan điện để
lên đường, bá quan văn võ đều được miễn chầu để đặt tiệc tiễn hành suốt
mười dặm trường đình, chỉ có Dương Thái Sư và Cao Thái Úy không ra đưa
tiễn mà thôi, còn bảy người bạn trong "Trường An Ẩm Trung Bát Tiên" thì
đưa tiễn đến ngoài trăm dặm và cùng nhau uống rượu tiễn biệt đến ba ngày
trời mới chịu chia tay. Lý Bạch đã làm bài thơ " 還山別金門知己詩" để ghi lại
sự việc nầy như sau :
恭承丹鳳詔, Cung thừa Đan Phụng chiếu,
欻起煙蘿中。 Hốt khởi yên la trung.
一朝去金馬, Nhất triêu khứ kim mã,
飄落成飛蓬。 Phiêu lạc thành phiêu bồng.
閑來東武吟, Nhàn lai Đông Võ Ngâm,
曲盡情未終。 Khúc tận tình vị chung,
書此謝知己, Thư thử tạ tri kỷ,
吾尋黄綺翁。 Ngô tầm Hoàng Ỷ Ông.
Có nghĩa :
Lãnh chiếu từ Đan Phụng cung,
Bỗng không lại muốn về cùng núi xanh.
Ngựa vàng một sớm phi nhanh,
Tấm thân phiêu bạc như tranh cỏ bồng.
Khi nhàn về Đông Võ ngâm,
Khúc ca tuy dứt tình không dứt nào.
Tạ lòng tri kỷ biết bao,
Ta về vui với hoàng bào Ỷ Ông !
Ẩm Trung Bát Tiên tiễn đưa Lý Bạch
Lý Bạch lên đường với mão ô sa áo gấm, trên đường mọi người đều
xưng tụng là Cẩm Y Công Tử. Quả nhiên hễ cứ gặp tửu phường uống rượu thì
ngân khố nơi đó lại xuất quỹ công mà trả. Một hôm về đến Cẩm Châu cùng
với Hứa phu nhân tương ngộ. Phủ huyện nghe Lý Học Sĩ vinh quy đều đến
chúc mừng, không ngày nào là không yến tiệc. Thắm thoát nửa năm đã trôi
qua...
Một hôm, chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ, Lý Bạch nói
với Hứa phu nhân là mình muốn đi du sơn ngoạn thủy. Bèn ăn mặc như là
một Tú Tài, dắt theo một tiểu đồng rồi cưởi lừa lên đường, và cũng không
quên giắt theo bên mình cái kim bài ngự ban của nhà vua. Các phủ huyện
đều cung ứng chi đủ tiền rượu cho Lý Bạch suốt trên đường đi. Hôm nọ,
khi đi ngang qua địa phận đất Hoa Âm, nghe dân chúng than rằng quan
huyện ở đây rất tham ô và hay nhũng nhiễu dân lành. Lý Bạch bèn cho tiểu
đồng lui ra, một mình cưởi lừa ngược đến trước huyện đường gióng ba hồi
trống kêu oan. Quan huyện đang thăng đường, nghe tiếng trống biết là có
người định quấy rối, nên cho lính bắt vào hỏi tội. Quan huyện thấy là
một tú tài say rượu kèm nhèm, bèn lệnh bắt nhốt vào nhà lao đợi khi tỉnh
rượu hãy hỏi tội. Lý Bạch bèn cả cười bảo mình không say. Huyện quan
càng giận bắt phải làm tờ cung khai xem ai đã xúi giục đến để quấy rối
nha môn. Lý Bạch đòi giấy bút rồi viết một lèo như sau :
"Người
cung khai ở đất Cẩm Châu, họ Lý tên chỉ một chữ Bạch. Tuổi trẻ đã thích
văn chương, người đời gọi là Trích Tiên, hươu bút lên thì quỷ thần cũng
kinh sợ, là Ẫm Trung Bát Tiên của đất Trường An, đã từng Hách Man Thư,
người người đều biết tiếng, say nằm trong tẫm cung của vua, rỏ dãi áo
vua lau, canh nóng tay vua khuấy, Cao Thái Úy cởi giày, Dương Thái Sư
mài mực. Trong Kim Loan điện còn cho ta cởi ngựa, nơi Huyện Hoa Âm nhỏ
bé nầy sao lại không cho ta cởi lừa !?"
Khai xong rút kim bài vua ban dằn lên trên bàn cái "cộp". Huyện quan
trông thấy kim bài, đọc lời khai xong, cả kinh thất sắc; vội vàng đỡ Lý
Bạch ngồi lên rồi phủ phục dập đầu lạy xuống đất bẩm rằng :"Tiểu quan
có mắt như mù, không trông thấy núi Thái sơn, cúi xin Đại Học Sĩ lão gia
khoan thứ cho tội đã mạo phạm". Các quan lớn nhỏ ở địa phương nghe tin
đồng kéo đến để ra mắt Lý Học Sĩ. Lý Bạch thừa dịp các quan họp mặt
đông đủ, lên giọng huấn thị rằng :"Chúng quan viên là "Dân chi phụ mẫu",
thọ lãnh bổng lộc của vua thì phải biết làm hết chức trách của mình,
sao lại còn có tư tâm tham tài hại dân, nhũng nhiễu quần chúng. Nay ta
chỉ cảnh cáo răn đe để các vị sửa chửa lỗi lầm cũ. Nếu còn để cho dân
tình ta thán thì lần sau ta sẽ luận tội không tha !" Các quan đều giật mình kinh hãi đồng
thanh vâng dạ. Quả nhiên sau lần đó các quan đều trở nên cần mẫn thanh
liêm. Các quan viên của các địa phương kế cận cũng kháo với nhau là nhà
vua ngầm cho Lý Học sĩ đi thị sát quan tình, nên đều giữ kẻ không dám hà
hiếp sách nhiễu bá tánh như xưa nữa.
Lý Bạch ngao du hết thiên hạ từ đất Triệu qua Ngụy, Yên, Tấn, Tề,
Lương, Ngô, Sở... Uống hết rượu ngon của thiên hạ, ngắm hết cảnh đẹp của
non sông. Khi An Lộc Sơn làm loạn, Lý đang ẩn cư ở Lư Sơn. Lúc bấy giờ
An Lộc Sơn làm phản (755) Đường Minh Hoàng phải chạy vào đất Thục. Vĩnh
Vương Lý Lân là Tiết Độ Sứ Đông nam muốn thừa cơ làm phản, nghe danh Lý
Bạch có văn tài võ lược, bèn ép Lý theo mình, Lý không ưng nhưng vẫn
được phong chức và ghép vào dưới trướng. Không bao lâu sau, khi loạn An
Lộc Sơn đã yên, Đường Túc Tôn lên ngôi (756), phong Quách Tử Nghi làm
Thiên hạ Binh mã Đại Nguyên Soái thu phục 2 kinh, Vĩnh Vương Lân cũng
thua chạy, Lý Bạch thừa cơ trốn thoát, khi chạy đến giang đầu của bến
Tầm Dương thì bị lính của triều đình bắt lại ghép vào loạn đảng. Khi
giải về trung dinh cho Quách Nguyên Soái. Tử Nghi thấy là Lý Học Sĩ bèn
thét quân cởi trói, mời lên ghế ngồi rồi cúi đầu lạy tạ rằng :"Xưa ở
Đông thị Trường An nếu không nhờ ân nhân giải cứu, thì Quách Tử Nghi sao
có được ngày hôm nay !" Bèn đặt tiệc thết đãi, rồi viết sớ dâng biểu về
triều đình giải oan cho Lý Bạch, lại nhắc đến công lao Hách Man Thư
ngày trước mà tiến cử cho nhà vua trọng dụng. Túc Tôn hoàng đế cũng mến tài Lý Bạch mà phong cho chức Tả Thập Di.
Quách Tử Nghi tạ ơn Lý Bạch
Lý Bạch đã ngán ngẫm với cảnh quan trường chìm nổi, áo xiêm trói buộc
không được tự do tự tại, nên bái tạ không nhận chức. Từ biệt Quách Tử
Nghi thả một lá thuyền xuôi về Nhạc Dương dạo Động Đình Hồ, xuôi qua Kim
Lăng thuyền cặp bến bên bờ sông Thái Thạch. Đêm đó vầng trăng sáng vằng
vặc như ban ngày. Như có điềm báo trước, Lý Bạch vận quan phục chỉnh tề, ngồi trước đầu thuyền cất chén uống rượu cùng trăng. Đang cơn tửu hứng, thấy bóng trăng chập chờn trên sông nước như đang dang tay mời gọi, Lý nâng chén lên mời vầng trăng trên không rồi cuối xuống định chạm chén cùng vầng trăng dưới nước, trong cơn men
rượu chếnh choáng Lý ngã xuống ôm lấy vầng trăng lắp loáng trên sông và
cùng bóng trăng tan theo dòng nước chảy. Khi thuyền gia hay được thì đà
đắm ngọc chìm châu mất rồi ! Bỏ lại Hứa phu nhân ngày đêm khoắc khoải vò võ mòn mõi đợi chồng về như hai câu thơ của Lý đã viết :
當君懷歸日, Đương quân hoài quy nhật,
是妾斷腸時! Thị thiếp đoạn trường thì !
Có nghĩa :
Ngày chàng nhớ trở lại nhà,
Thiếp đà đứt ruột xót xa nhớ chàng !
Theo truyền thuyết thì ngay lúc đó tiếng tiên nhạc và tiêu thiều từ
trên không vẳng xuống, có 2 đồng tử tay cầm tinh kỳ hiện ra hô to
:"Phụng lệnh Ngọc Đế thỉnh Tinh chủ hoàn vị !" Lòng sông chợt chuyển
động, một cơn sóng to nổi lên giữa dòng, một con kình ngư chở Lý Bạch
trên lưng lướt lên khỏi mặt nước bay thẳng lên không theo tiếng nhạc mất hút vào màn đêm thăm thẳm. Sáng
hôm sau Huyện lệnh Lý Dương Băng dâng biểu tấu trình mọi việc. Vua bèn
hạ chiếu cho địa phương lập miếu để thờ Lý Trích Tiên, hằng năm xuân thu
nhị kỳ hương khói không dứt.
Vì Lý Bạch say trăng tự trầm trên sông Thái Thạch, nên trên Thái
Thạch Cơ, bờ đá bên dòng Thái Thạch có rất nhiều danh thắng để tưởng nhớ
đến Thi Tiên, như Lý Bạch Mộ 李白墓, Trích Tiên Lâu 謫仙樓, Tróc Nguyệt Đình
捉月亭... Tất cả những văn nhân thi sĩ, sứ thần nước ngoài khi đi sứ ngang
qua đây đều có làm thơ tưởng nhớ đến Lý Bạch. Cụ Nguyễn Trãi nhà ta
trong thời gian ở Trung Hoa cũng có bài thơ Thái Thạch Hoài Cổ 采石懷古 để
tưởng nhớ đến Thi Tiên :
采石曾聞李謫仙, Thái Thạch tằng văn Lý Trích Tiên,
騎鯨飛去已多年。 Kỵ kình phi khứ dĩ đa niên.
此江若變為春酒, Thử giang nhược biến vi xuân tửu,
只恐波心尚醉眠。 Chỉ khủng ba tâm thượng túy miên.
Có nghĩa :
Thái Thạch từng nghe Lý Bạch say,
Cởi kình bay biết mấy năm nay.
Sông này nếu biến thành xuân tửu,
Lòng sóng e rằng vẫn ngủ say !
Lục bát :
Từng nghe Thái Thạch Trích Tiên,
Cởi kình bay mất bao niên trước rồi.
Nước sông biến rượu xuân trôi,
Chỉnh e lòng sóng say vùi ngủ yên !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Mời Xem :
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa