Ngày xưa, ở làng Nam Xương
có cô gái tên là Vũ Thị Thiết, dáng người
đã xinh đẹp nết na lại
thùy mị đoan trang. Nàng lấy chồng tên
Trương Sinh, vốn là người
cùng làng. Trương Sinh có tính cả ghen, hay để
tâm xét nét vợ, nhưng vợ
chàng thường giữ gìn khuôn phép nên không có chuyện gì xảy
ra.
Vợ chồng hương đượm lửa nồng chưa được bao
lâu thì bỗng nghe tin chốn biên thùy có giặc, chồng vâng lệnh quan phải
từ giã mẹ và vợ đi
lính thú. Bấy giờ vợ đang
có thai. Buổi chia tay thật là bịn rịn, mẹ chúc
cho con chân cứng đá mềm, chồng
khuyên vợ cố gắng phụng dưỡng mẹ già và nuôi con khôn lớn.
Sau khi chồng vắng
nhà được mươi ngày thì Vũ Thị Thiết sinh được một đứa con trai, đặt
tên là thằng Đản. Thằng
bé sởn sơ mạnh khỏe, còn bà nội
của nó vì nhớ con sinh ra đau ốm. Vợ chàng Trương hết
lòng mời thầy chạy thuốc, nhưng bệnh của mẹ chồng mỗi ngày một
nặng, chẳng bao lâu thì mất. Nhờ có bà con xóm giềng, mọi việc tống
táng đều lo liệu chu toàn.
Đã mấy thu qua không thấy chồng về, một mẹ một con mòn mỏi
trông đợi. Hàng ngày chăm lo đồng áng, tối
lại nàng mới có thì giờ
chăm sóc cho con. Có những hôm phải chong đèn khâu vá dọn dẹp và
nô đùa với con. Những lúc con khóc nàng thường chỉ vào
bóng của mình trên vách mà bảo:
- “Nín đi con! Kìa, kìa bố đã về. Đấy! Đấy!”
Đứa bé nhìn vào bóng, nín bặt.
Cứ như thế lâu dần thành thói quen. Thằng Đản thường đòi gặp
bố trước khi đi ngủ. Cái bóng đen đen
trên tường từ đấy đối với cả mẹ lẫn con như
một người thân thích.
Rồi chiến tranh kết thúc, cõi biên thùy lại yên lặng,
những người đi lính thú lại được trả về quê
quán. Trương Sinh cũng ở trong số
đó. Sau bao năm tháng cách xa ly biệt,
hai vợ chồng gặp
nhau mừng mừng tủi tủi. Chàng đau lòng vì mất người mẹ thân yêu nhưng
lại vui sướng vì có đứa
con. Thằng bé Đản bây giờ
lên ba tuổi, đã biết nói bập
bẹ. Tuy nó để cho bố nó
bế nhưng nó vẫn tỏ ra xa lạ.
Qua mấy ngày hôm sau, Trương Sinh hỏi
mộ mẹ rồi bế con đi thăm. Ra đến đồng, thằng bé Đản
quấy khóc nhè, Trương sinh dỗ
dành:
- Con nín đi đừng khóc, bố yêu con. Rồi
bố mua quà cho mà ăn.
Thằng bé đáp ngay:
- Không, ông không phải là bố Đản... Bố Đản khác
kia... Chỉ đến tối bố Đản mới đến nhà
thôi.
Nghe nói, Trương sinh thấy đau nhói ở tim. Chàng nhìn vào con hỏi dồn:
- Thế thì bố của Đản như thế nào? Con nói đi!
- Tối nào bố Đản cũng
đến... Mẹ Đản đi
cùng đi, mẹ Đản ngồi
cùng ngồi... Chẳng bao giờ
bố bế Đản cả…
Mấy lời nói vô tình của đứa bé
làm cho Trương Sinh tin là vợ mình ngoại
tình, không còn ngờ gì nữa. Nghĩ đến
người vợ xinh đẹp trong tay kẻ khác, cơn
ghen tự nhiên bừng bừng bốc lên. Chàng lẩm bẩm: "Thật là quá rõ. Không ngờ trong khi mình gian lao thế ấy, thì
nó ở nhà lại như thế kia". Về
đến nhà Trương sinh mắng
nhiếc vợ tàn tệ:
- Tao không ngờ mày là đồ thất tiết. Mẹ chết, chồng
đi vắng, tối tối rước trai về
nhà tò te nữa.
Chàng mắng dữ dội nhưng
không bảo là từ miệng con
nói ra. Vợ chàng một mực chối cãi:
- Cách biệt ba năm, thiếp vẫn một lòng một
dạ, đâu có hư thân mất
nết như lời chàng nói. Xin chàng đừng ngờ oan
cho thiếp.
Vợ càng phân trần thì cơn giận của chồng
càng không thể dằn xuống được nữa. Chồng bắt đầu dùng lối
vũ phu để tra khảo vợ. Hàng
xóm láng giềng nghe tin vợ chồng lục đục đổ tới can
ngăn, nhưng chẳng ăn thua gì. Chồng cho là vợ khéo mồm khéo mép nên được lòng mọi người che lấp
tội lỗi. Trong cơn phẫn uất, người thiếu phụ ôm lấy
con khóc nức nở, rồi nhân
lúc chồng sang nhà hàng xóm, chạy một mạch ra bến
Hoàng Giang đâm đầu xuống nước tự tử. Khi Trương Sinh về
thấy mất hút bóng vợ, biết có sự chẳng lành. Nghe nói vợ đã tự trầm thì rất
hối hận, vội chạy ra bờ sông. Nhưng
dòng nước chảy xiết, mò
đến tối ngày cũng không tìm thấy đâu
xác vợ.
Tối lại, thằng bé khóc. Trương sinh thắp đèn dỗ cho con nín. Chợt thằng bé kêu lên:
- Ồ, bố Đản đã đến kia kìa!
- Đâu con?
Nó trỏ vào bóng chàng trên vách mà nói: "Đấy! Đấy!"
Nhớ lại lời con nói khi đi thăm mộ, Trương
Sinh mới hiểu ra nông nỗi.
Chàng nhận ra nỗi oan tày trời
của vợ chỉ vì lòng ghen tuông nóng
nảy của mình. Nhưng đã muộn mất rồi, còn làm gì được nữa. Chàng chỉ còn biết
ngày ngày ẵm con nhìn xuống dòng sông mà khóc. Từ đó chàng ở
vậy nuôi con không lấy vợ khác.
Về sau người ta dựng ở bến Hoàng
Giang một cái miếu thờ nàng
Vũ Thị Thiết, quen gọi
là miếu Vợ chàng Trương. Người chồng bấy giờ mới nghĩ
ra, biết nỗi oan của
vợ mình, bèn lập đàn ở bờ sông để
giải oan cho nàng. Dân vùng ấy sau này biết
được câu chuyện đã lập
miếu thờ bà ấy ở trên bờ
sông.
Về sau, vua Lê Thánh Tông, nhân trên chuyến chinh phạt quân Chiêm Thành, khi qua vùng nầy thì gặp phong ba bão táp, có con rùa luôn nổi hiện ra trước mũi thuyền của nhà vua ngăn cãn không đi được. Vua cho quân nghỉ tạm một đêm nơi đây. Khuya đến, vua vào miếu đề Vũ Nương kính bái xin thần linh phò hộ cho bớt cơn gió bão. Lần ấy, nhà vua thắng trận. Vua sau đó ban lịnh cho 4 vùng Vũ Điện, Hào Châu, Phú Lư, Xương Hậu được phép lập đền thờ Bà thần linh Vũ Nương. Chính vua Lê Thánh Tông cũng đã vịnh bài thơ sau đây nhắc lại tích sử Thiếu Phụ Nam Xương này:
𤊃 𤏫 頭 峕 詉 艥 香,
廟 埃 如 廟 堓 乴 張 。
旕 嘫 油 忍 停 牐 燪 ,
宮 搩 之 朱 累 細 娘 。
証 果 乑 堆 暈 日 月 ,
解 冤 之 路 亖 坛 場 。
過 低 買 別 源 干 意,
呵 責 乴 張 窖 負 傍.
Chữ Nôm:
THIẾU PHỤ NAM XƯƠNG
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ,
Làn nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả có đôi vừng nhật nguyệt,
Giải oan chi mượn đến đàn tràng.
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng!
(Lê Thánh Tông)
* Nhiều lời bình luận cho rằng bài thơ trên của Vua Lê Thánh Tôn bằng chữ Hán đã lược âm ra Chữ Nôm nên có lẽ sơ cách âm ở các câu 4, 6 và 8: nường thành Nàng; trường thành tràng và phường thành phàng nên không trùng âm với 2 câu trên. (không biết đúng vậy không?)
(Hồ Xưa sưu tầm trên Trang Cổ Tích Việt Nam)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét