Thứ Hai, 19 tháng 8, 2024

NGỘ NHẬP -Thơ Chánh Minh và 8 Bài Họa Của Các Thi Hửu

NGỘ NHẬP

Tiếc thương chi những chuyện ban sơ,

Dĩ vãng qua đi... chấm ảo mờ.

Hiện tại còn đây, xin thức tỉnh,

Tương lai chưa đến, hãy đừng mơ.

Nhẹ nhàng lướt sóng thuyền về bến,

Vững chãi quay đầu bạn thấy bờ. (1)

Ngộ nhập an nhiên ngay Phật Tánh, (2)

Thân tâm an lạc, cả trời thơ !

Chánh Minh

 7 Feb 2013

(1)"Hồi đầu thị ngạn": ý nói nếu quay vào trong tâm sẽ thấy Phật Tánh hay Bản lai diện mục.

(2) “Ngộ nhập tri kiến Phật”

Thơ Họa:

1./ GIÁC NGỘ

Trực chỉ thiện tâm tánh bản sơ

Thông minh hành kiến chẳng mù mờ (*)

Giới trì tiểu thặng dư đau khổ (*)

Thiền định đại thừa huyễn mộng mơ

Giác tánh từ bi, thuyền biết bến (*)

Ngộ tâm đoạn hoặc, đuốc soi bờ

Ưng vô sở trụ kỳ tâm động (*)

Trí tuệ an tâm được thẩn thơ!

      (Phan Thượng Hải)

   8/11/24 

(*) Chú thích của tác giả:

         Giác Ngộ (Enlightenment, Awakening) là đối ngược lại với Vô Minh (= Si = Ignorance).  Giác Ngộ gồm có Kiến (= Giải Ngộ = thông minh trong sự hiểu biết Giác Ngộ) và Hành (= Chứng Ngộ = thông minh trong sự thi hành Giác Ngộ trong đời sống), theo Thiền Tông và HT Thích Thanh Từ. 

         Từ câu: "Trực chỉ nhân tâm.  Kiến tánh thành Phật" (Yếu chỉ Thiền Tông).  

         Thặng = Thừa = Vehicle.  Sách xưa (nhất là của Trần Trọng Kim) dùng từ ngữ Tiểu Thặng và Đại Thặng cho Tiểu Thừa và Đại Thừa (Greater Vehicle and Lesser Vehicle). 

         Thường có từ ngữ Phật Giáo: "Thuyền từ, Đuốc tuệ". 

         Từ câu: "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" (Pháp Bảo Đàn Kinh).

Pháp Bảo Đàn kinh viết:

         Huệ Năng hiểu ý nên canh ba vào thất (phòng của Tổ).  Ngũ tổ dùng cà sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết kinh (Bát Nhã) Kim Cang.  Khi đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” thì Huệ Năng ngay đó đại ngộ (đốn ngộ), vạn pháp chẳng lìa tự tánh.  

Huệ Năng liền bạch: “Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn chẳng sanh diệt, vốn tự đầy đủ, vốn chẳng lay động và tự tánh hay sanh vạn pháp”.  Tổ biết Huệ Năng đã ngộ nên nói với Huệ Năng rằng: “Chẳng nhận được bản tâm (thì) học pháp vô ích, nếu nhận được bản tâm thấy được bản tánh tức gọi là Trượng Phu, là Thiên Nhơn Sư, là Phật”.  

"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" có nghĩa là "Nên không bám chắc ở một chỗ mà sinh ra kỳ tâm". 

         "Ưng vô sở trụ" là Tâm của Con người không sở trụ vào Sự vật (= Giai đoạn 1 của Đoạn Khổ Nghiệp).  Vô sở trụ là Đoạn Hoặc.  Đoạn Hoặc là đoạn diệt 3 mê hoặc (Defilements, Klesa) vào Sự vật, gồm có Tham (Greed), Sân (Anger), Mạn (Pride).  Hoặc là Khổ Nghiệp.  Đoạn Hoặc là đoạn diệt Khổ Nghiệp. 

         "Nhi sinh kỳ tâm" là Tâm của Con người đồng nhất với Bản tâm kỳ diệu (= Giai đoạn 2 của Đoạn Khổ Nghiệp).  Bản tâm của Con người thì luôn Từ bi tự bẩm sinh. Bản tâm Từ bi thì không có Khổ Nghiệp.  

(Tự tánh = Phật tánh = Bản tâm)

Như vậy, Tâm Giác ngộ là Tâm Đoạn Hoặc và Từ Bi đối với Sự vật

         Theo các Tông của Đại Thừa (ĐT); Không Tông của ĐT Trung Quán và Nhiếp Luận Tông của ĐT Duy Thức chủ trương Đoạn Hoặc, Tánh Tông của ĐT Duy Thức chủ trương Từ Bi từ Phật Tánh bẩm sinh (thì tự động sẽ Đoạn Hoặc); nhưng Thiền Tông chủ trương Đoạn Hoặc rồi mới có Từ Bi theo Phật tánh hay Bản tâm (vì Hoặc, hay mê hoặc, sẽ che lấp Bản tâm Từ Bi). 

          Thập Nhị Nhân Duyên của Phật Thích Ca và Phật Giáo Nguyên Thủy (Tiểu Thừa) cũng chỉ dẫn tới chủ trương Đoạn Hoặc vì không chủ trương là Con người sinh ra đã có Phật tánh hay Bản tâm Từ bi (chủ trương giống như Không Tông và Nhiếp Luận Tông của Đại Thừa).  Bắt đầu của 12 Nhân Duyên là Vô Minh.  

         Phật Giáo Nguyên Thủy và Phật Giáo Đại Thừa Trung Quán (theo kinh Bát Nhã) có thể đều nghĩ rằng sau khi Tâm của Con người Đoạn Hoặc thì Tâm của Con người sẽ tự động sinh ra Từ Bi do đó không cần phải nêu ra.  Tuy nhiên Đại Thừa Thiền Tông cho rằng sở dĩ Tâm của Con người sinh ra Từ Bi sau khi Đoạn Hoặc là vì Tâm của Con người có sẵn Bản tâm (hay Phật tánh) Từ Bi ngay từ bẩm sinh.  

Bản tâm và Phật tánh còn có nhiều danh hiệu khác của Phật Giáo Đại Thừa: Chân như, Như thực, Như Lai tạng, Như Lai, Phật thân, Pháp thân, Thực tánh, Tự tánh, Bản lai diện mục ...  (Như lai = Phật).

Bản Tâm = Nature Mind

Phật Tánh = Buddha Nature = Buddhatà = Buddha-svabhàva

Chân Như = Thusness, Suchness = Tathatà.  Như Thực = Suchness of Truth

Như Lai tạng = Embryo of Tathàgata = Tathàgata-garbha.  Như Lai = Tathàgata

Phật Thân = Buddha body = Buddha-kayà.  Pháp Thân = Dharma body = Dharma-kayà

Thực Tánh = True Nature.  Tự Tánh = Intrinsic Nature = Svabhava

Theo Phạn ngữ, Chân như cũng gần giống Như lai.

         Chân Như = Tathatà 

         Như Lai = Tathàgata 

Như Lai tạng (The Tathàgata embryo = Tathàgata-garbha): 

         Tathàgata = Thus gone = Như Lai.  

         Garbha = Womb, Embryo = Tạng.  Garbha có nghĩa bóng là trung tâm (center) hay bản thể (essence).  

         Tathàgata Garbha = Containing a Tathàgata = Như Lai Tạng chứa (một) Như Lai.

Trúc Lâm đại sĩ Trần Nhân Tông dùng từ ngữ "gia trung hữu bảo" với ngụ ý là Phật tánh hay Bản tâm.

Trong câu tục ngữ Việt "Bụt nhà không thiêng, cầu Thích Ca ngoài đường" (từ "Tục Ngữ Lược Giải" của Lê Văn Hoè), "Bụt nhà" ngụ ý là Phật tánh.

"Thiện căn" trong câu "Thiện căn ở tại lòng ta" (Truyện Kiều) của Nguyễn Du cũng chính là Bản tâm từ bi bẩm sinh trong mỗi người.

Nho Giáo của Mạnh Tử gọi là "Tánh Bản Thiện" và Tân Nho Giáo của Vương Dương Minh gọi là "Lương tri hay Trí Lương tri". 

Đó cũng là Thiện Tâm của Kitô Giáo (Christianity = Thiên Chúa Giáo).  "Bản tâm Từ bi" của Phật Giáo không khác "Thiện tâm Bác ái" của Kitô Giáo. 

Đây là những trích đoạn từ bài "Căn Bản Phật Pháp - Giác Ngộ và Thiền Định của Thiền Tông" (Bs Phan Thượng Hải) đăng trong phanthuonghai.com 

 

2./ SƠ TÂM –XA RỜI VÀ TRỞ VỀ

Xa tìm, bỏ lại mảnh tâm sơ

Lang bạt, ruổi rong giữa mịt mờ

Sóng điệp trùng xô thuyền ảo mộng

Hồn thầm lặng níu bóng hoang mơ

Hồi đầu biển thẳm tù mù bến

Dõi mắt non cao loáng thoáng bờ

Nguồn cội trở về nơi tịnh thủy

Soi lòng huyễn hóa dưới trăng thơ…

Lý Đức Quỳnh

   12/8/2024

3./ĐỪNG ẢO TƯỞNG

Chuyện đời đừng tưởng quá đơn sơ
Có bước vào trong …ngó mịt mờ 
Chửa thấy tương lai lòng mãi ước 
Quay nhìn dĩ vãng dạ hoài mơ
Trời cao gió lộng mau ra bến
Biển rộng sóng xô sớm lại bờ
Nhập thế phù sinh mà ảo tưởng 
Nghĩ rằng đời đẹp tựa trang thơ !
songquang 
20240813

4./  Kính Họa Vận :  TƯỞNG PHÙNG-HỘI NGỘ…

Bá nhơn bá tánh thuở hoang sơ 
Tri diện tri tâm khói tỏa mo…!
Thực tại con người sao bé nhỏ 
Ngày mai vạn vật sáng tinh mơ…
Cữu Long biển cả khôn tìm bến 
Lục Tỉnh sông dài khó nhận bỏ…
Nhập định, tương phùng đôi bạn hữu 
Tham thiền hội ngộ một bài thơ…!
MAI XUÂN THANH 

Silicone Valley, August 13, 2024


5./ TÌM VỀ

Quay về tìm lại thuở hoang sơ
Bản thể chân như chửa bị mờ
Đi đứng nằm ngồi tâm há động
Uống ăn ngơi nghỉ trí nào mơ
Hành trì hỷ xả mê lìa bến
Rèn luyện từ bi giác thấy bờ
Mỗi sát na vui là cõi Niết
Thong dong tự tại bút đề thơ
ThanhSong ntkp
CA.Aug/11/2024

6./

KÍNH HỌA:  NẼO THIỆN TU TÂM.

Mở mắt chào đời lúc mới sơ,
Ấu thơ Tâm thiện trí không mờ.
Lớn lên học hỏi Đời muôn vẽ,
Xạo xự công danh giấc mộng hờ.
Hạnh phúc đi tìm bao sóng gió,,,
Oan gia,nghiệp chướng biết đâu bờ.
Quay đầu giác ngộ bình Tâm thức,
Nẽo thiện Tu Tâm Trí Huệ Thơ...
Mỹ Nga,14/08/2024 ÂL,12/07/Giáp Thìn.
 

7./ HỌA: TÂM GÌN AN LẠC

Phủi sạch u sầu chuyện buổi sơ,
Xua tan cho uẩn khúc lu mờ.
Thế gian giữ sạch hồn thanh tịnh,
Kiếp sống an gìn thiện ước mơ.
Thuyền giữ vững tay thuyền đến bến,
Chèo lơi ghe lạc hướng xa bờ.
Tâm yên bác ái là tâm Phật,
Số kiếp qua rồi đẹp áng thơ.
*
Thuyền về đúng bến khỏi trông chờ!
HỒ NGUYỄN (14-8-2024)


 Mời Xem :

GÁI BÌNH ĐỊNH -Thơ Chánh Minh và Thơ Họa 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thành Ngữ Điển Tích 114 : TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH.

  Thành Ngữ Điển Tích 114 :                                 TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH. Ao Chuôm  TRÌ ĐƯỜNG 池塘 là Ao chuôm, ao đầm, ao hồ...