Góc Đường Thi :
Chùm thơ KHÚC HÁT HÁI SEN (2)
Thái Liên Khúc 採 蓮 曲
江 南 採 蓮 女, Giang Nam thái liên nữ,
春 波 秋 水 間. Xuân ba thu thủy gian.
Có nghĩa :
Giang Nam cô gái hái sen,
Sóng xuân nước biếc hoa chen lẫn người.
Từ đời Lưỡng Hán cho đến Nam Bắc Triều hình ảnh của các cô
gái hái sen, đất Giang Nam được vẽ thành tranh, ca thành thơ, tấu
thành khúc hát giữa vùng trời nước mênh mông sông ngòi chằn
chịt của miền quê hương sông nước Giang Nam với phong cảnh
hữu tình và các cô yểu điệu thục nữ xinh tươi lồng trong những
chuyện tình nên thơ chất phát dễ đánh động lòng người.
Kịp đến đời nhà Đường, thời đại hoàng kim của thi ca, thì các
thi nhân đua nhau vẽ nên những bức tranh "Hái Sen" bằng thi ca
qua các bài thơ Cổ phong, Thất ngôn tuyệt cú, Ngũ ngôn tuyệt cú...
như :
6. Bài thơ VIỆT NỮ TỪ 越 女 詞 (其三) của Thi Tiên Lý Bạch 李 白:
越 女 詞 VIỆT NỮ TỪ
(其 三) (Kỳ tam)
耶 溪 採 蓮 女, Da Khê thái liên nữ,
見 客 棹 歌 回。 Kiến khách trạo ca hồi.
笑 入 荷 花 去, Tiếu nhập hà hoa khứ,
佯 羞 不 出 來。 Dương tu bất xuất lai.
* Chú thích :
- VIỆT NỮ TỪ 越 女 詞 : Bài ca từ về các cô gái đất Việt.
VIỆT ở đây là Ngô Việt 吳 越 vùng sông nước của miền nam Trung
Hoa từ các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang... trở về Nam; là lãnh địa
của nước Ngô và nước Việt thời Chiến Quốc.
- DA KHÊ 耶 溪 : là Nhược Da Khê 若 耶 溪 là Khe suối Nhược
Da từ Nhược Da Sơn chảy thành sông về hướng bắc đổ vào sông
Vận Hà. Bên bờ sông có một bãi đá nổi tiếng là Hoán Sa Thạch
浣 紗 石, tương truyền đây là nơi ngày xưa người đẹp Tây Thi và
các cô gái nước Việt thường giặt tơ giặt lụa nơi nầy.
- THÁI LIÊN NỮ 採 蓮 女 : Từ dùng gọi chung cho "Các cô gái
hái sen".
- TRẠO 棹 : là Mái chèo; Động từ có nghĩa là Chèo.
- DƯƠNG 佯 : là Giả đò, giả bộ. DƯƠNG TU 佯 羞 : là Làm
bộ mắc cở, e thẹn.
* Nghĩa bài thơ :
BÀI CA TỪ VỀ CÁC CÔ GÁI VIỆT
Các cô gái hái sen bên dòng khe Nhược Da của đất Việt,
trông thấy khách lạ bèn vừa hát vừa trở chèo, mĩm cười bơi vào
trong đám hoa sen. Làm bộ như là thẹn thùng ở mãi trong đó
chẳng chịu bơi ra.
* Diễn Nôm :
VIỆT NỮ TỪ (3)
Cô hái sen khe Da,
Thấy khách trở chèo ca.
Cười len vào rừng lá,
Thẹn thùa chẳng chịu ra !
Lục bát :
Da Khê cô gái hái sen,
Chợt thấy khách bèn trở lái vào trong.
Tiếng ca vẳng trong sen hồng,
Hổ ngươi cả thẹn đừng hòng đợi ra.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Cuộc sống nông tang của các cô cậu vùng sông nước Giang
Nam còn được thể hiện qua việc hái sen của các nàng thôn nữ.
Thi Tiên Lý Bạch đã ghi lại trong một khoảnh khắc rất nên thơ
trong một đêm thu trăng sáng qua bài LỘC THỦY KHÚC 淥
水 曲 trong Nhạc phủ như sau:
7. Bài thơ LỘC THỦY KHÚC 淥 水 曲 của
Thi Tiên LÝ BẠCH 李 白 :
淥 水 曲 LỘC THỦY KHÚC
淥 水 明 秋 月, Lộc thủy minh thu nguyệt,
南 湖 採 白 蘋。 Nam hồ thái bạch tần.
荷 花 嬌 欲 語, Hà hoa kiều dục ngữ,
愁 殺 盪 舟 人。 Sầu sát đãng chu nhân.
Chú thích :
- LỘC THỦY KHÚC 淥 水 曲 : LỘC THỦY là Nước có màu
xanh, chỉ nước thật trong; Nhưng LỘC THỦY KHÚC là tên
của một khúc hát trong Nhạc Phủ.
- NAM HỒ 南 湖 : là Phía nam của Hồ Động Đình. Động Đình
Hồ là hồ nước lớn nhất Giang Nam và cũng là hồ nước lớn nhất
của Trung Hoa.
- BẠCH TẦN 白 蘋 : là Bông súng trắng, thường mọc lẫn với
hoa sen, vì cùng là loài tảo rể ăn xuống bùn, lá nổi trên mặt nước
và nở hoa màu trắng. Trong cổ nhạc ta cũng có bài ca Vọng Cổ
BÔNG SÚNG TRẮNG của soạn giả Viễn Châu do danh ca Minh
Cảnh và nữ nghệ sĩ Lệ Thủy trình bày:
- KIỀU 嬌 : là Yêu kiều đẹp đẽ dễ thương; KIỀU DỤC NGỮ
嬌 欲 語 là Đẹp đến như muốn nói, đẹp nũng nịu dễ thương.
- SẦU SÁT 愁 殺 : là Buồn muốn chết; buồn não nuột; buồn
thắm thía.
- ĐÃNG CHU 盪 舟 : là lúc lắc cho thuyền đi tới; là Chèo
thuyền.
* Nghĩa bài thơ :
KHÚC HÁT NƯỚC TRONG
Làn nước trong xanh làm cho trăng thu như càng sáng hơn
lên; Ta thả một chiếc thuyền con ở phía nam Hồ Động Đình để
hái bông súng trắng; Nhìn thấy các hoa sen chen lẫn trong đám
lá xanh đẹp não nùng như muốn nói nên lời; Làm cho người
chèo thuyền là ta đây cảm thấy như có một nỗi buồn da diết
đến lặng người.
Nhìn thấy đóa hoa sen vừa chớm nở, các cánh hoa còn chưa
bung hẵn ra như cô thiếu nữ đang hàm tiếu còn e ấp như muốn
cười lại thôi, muốn nói lại ngừng; vẻ đẹp thẹn thùa đáng yêu dễ
làm say đắm lòng người: "Hà hoa kiều dục ngữ, Sầu sát đãng
chu nhân"... Lời thơ đã dứt, nhưng tình ý như còn vương vấn
mãi với người "đãng chu" trên mặt hồ mênh mông mây nước!...
* Diễn Nôm :
LỘC THỦY KHÚC
Nước trong sáng trăng thu,
Súng trắng hồ nam hái.
Sen đẹp như muốn nói...
Sầu chết người "đãng chu" !
Lục bát :
Nước trong càng sáng trăng thu,
Súng trắng tìm hái bờ hồ phía nam.
Lá xanh bông trắng nhị vàng...
Tựa như muốn nói sầu sang người chèo !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Không phải chỉ có các thi nhân làm thơ "Hái Sen" mà đến
cả ông vua tài hoa văn võ song toàn Đường Thái Tông 唐 太 宗
Lý Thế Dân 李 世 民 cũng có bài thơ làm theo thể Cổ Phong là
"Thái Phù Dung 採 芙 蓉" như sau:
Đường Thái Tông Lý Thế Dân
8. Bài thơ THÁI PHÙ DUNG 採 芙 蓉 của
Đường Thái Tông 唐 太 宗 :
採 芙 蓉 THÁI PHÙ DUNG
結 伴 戲 方 塘,攜 手 上 雕 航。
Kết bạn hí phương đường, Huề thủ thướng điêu hàng.
船 移 分 細 浪,風 散 動 浮 香。
Thuyền di phân tế lãng, Phong tán động phù hương.
游 鶯 無 定 曲,驚 鳧 有 亂 行。
Du oanh vô định khúc, Kinh phù hữu loạn hàng.
蓮 稀 釧 聲 斷,水 廣 棹 歌 長。
Liên hi xuyến thanh đoạn, Thủy quảng trạo ca trường.
棲 烏 還 密 樹,泛 流 歸 建 章。
Thê ô hoàn mật thụ, Phiếm lưu quy Kiến Chương.
Chú thích :
- THÁI PHÙ DUNG 採 芙 蓉 : là Hái hoa Phù dung; là Hái
Sen. Như ta đã biết ở bài trước, hoa Sen còn có tên là THỦY
PHÙ DUNG là Hoa Phù dung ở dưới nước.
- KẾT BẠN 結 伴 : là Vầy đoàn với nhau; là Tụ tập; là KẾT
BẠN.
- PHƯƠNG ĐƯỜNG 方 塘 : Nghĩa đen là "Cái ao vuông".
Nghĩa phát sinh là : Cái ao lớn rộng chừng nửa mẫu đất và có
làn nước trong như gương.
- ĐIÊU HÀNG 雕 航 : Những chiếc thuyền có vẽ vời điêu
khắc đẹp đẽ của giới quý tộc nhà giàu ngày xưa dùng để du
ngoạn dưới sông nước; còn được gọi là HỌA PHẢNG 畫 舫.
- TẾ LÃNG 細 浪 : Những gợn sóng nhỏ; Sóng gợn lăn tăn.
- PHÙ HƯƠNG 浮 香 : Hương thơm của hoa sen thoang
thoảng như nổi trên mặt ao.
- DU OANH 游 鶯 : Những con chim hoàng oanh bay nhảy
hót líu lo như đang dạo chơi.
- KINH PHÙ 驚 鳧 : Làm giật mình những con le le, vịt trời.
- XUYẾN THANH 釧 聲 : Tiếng leng keng của các vòng đeo
tay (của Cung nữ).
- TRẠO CA 棹 歌 : Tiếng hát của những trạo phu (người
chèo thuyền).
- MẬT THỤ 密 樹 : Những hàng (rừng) cây rậm rạp.
- KIẾN CHƯƠNG 建 章 : Tên một cung trong hậu cung của
nhà vua. Ngoài Kiến Chương còn có cung Chiêu Dương như
trong bài thơ TIỆP DƯ OÁN 婕 妤 怨 của Hoàng Phủ Nhiễm
皇 甫 冉 đời Đường:
花 枝 出 建 章, Hoa chi xuất Kiến Chương,
鳳 管 發 昭 陽。 Phụng quản phát Chiêu Dương.
借 問 承 恩 者, Tá vấn thừa ân giả,
雙 蛾 幾 許 長? Song nga kỷ hứa trường?
Có nghĩa :
Cành hoa nở cung KIẾN CHƯƠNG,
Sáo phượng dìu dặc CHIÊU DƯƠNG rộn ràng.
Hỏi người yêu dấu điện vàng,
Đã dài được mấy hai hàng mày nga ?!
* Nghĩa bài thơ :
HÁI HOA PHÙ DUNG
Các cung nhân trong cung cùng vầy đoàn vui chơi với nhau
bên hồ sen rộng lớn, rồi cùng nắm tay nhau bước lên những chiếc
thuyền hái sen đẹp đẽ. Thuyền lướt đi nhè nhẹ chia đôi làn nước
đang gợn sóng tăn tăn. Gió hiu hiu lay động làm cho mùi hương
của hoa sen như trôi nổi thoang thoảng trên mặt hồ. Những con
chim hoàng oanh bay hót những khúc nhạc líu lo vô định và đàn
vịt trời như giật mình bay tán loạn chẳng thành hàng ngũ gì nữa
cả. Sen hái đã gần xong nên tiếng leng keng trên vòng đeo tay của
các người đẹp cũng thưa dần, trong khi tiếng hát của các tay chèo
vẫn còn văng vẳng kéo dài ra. (Trời về chiều) Các con qụa cũng
đã tìm về nương tựa ở các hàng cây rậm rạp và dòng nước trôi nổi
cũng như đang đưa thuyền tìm về với cung Kiến Chương.
Bài thơ mang khẩu khí của một quân vương đang ngắm nhìn
cảnh vui chơi trong một buổi hái sen của các cung nhân trong cung
vua với đầy đủ thanh sắc của ngũ giác quan : Nhìn các cung phi
cùng vầy đoàn vui vẻ kéo lên thuyền, nhìn thuyền đi trong gió nhẹ
trong các gợn sóng có lẫn mùi hương sen thoang thoảng, hòa vào
trong cảnh thiên nhiên với oanh hót vịt bay; tiếng cười nói và vòng
tay leng keng của các người đẹp chập chờn lẫn khuất trong tiếng
hát hò của các trạo phu trên sông nước... Qủa là một bức tranh
toàn bích. Cảnh hái sen vui chơi trong cung như là một màn vũ
đạo lớn của các cung nhân hòa vào cảnh thiên nhiên nên thơ hữu
tình như một bức tranh "Thái Liên Đồ" đầy thi vị dưới ngòi bút
của một quân vương thi sĩ.
Bài thơ còn thể hiện tài hoa của ông vua tài tử với mười câu là
năm cặp đối nhau chan chát nhưng lại rất sống động một cách
thật tự nhiên không chút gò bó nào cả !
* Diễn Nôm :
THÁI PHÙ DUNG
Vầy đoàn bên hồ nước,
Nắm tay bước xuống thuyền.
Thuyền đi chia sóng lướt,
Gió thổi đưa hương sang.
Líu lo oanh vui hót,
Giật mình vịt lìa đàn.
Sen vơi xuyến tay nhặt,
Nước lớn tiếng ca vang.
Quạ chiều nương rừng rậm,
Kiến Chương thuyền về ngang.
Song thất Lục bát :
Cùng vầy đoàn vui chơi bến nước,
Nắm tay nhau vui bước xuống thuyền.
Thuyền len sóng nhẹ lướt êm,
Hương sen theo gió bồng bềnh đâu đây,
Tiếng oanh hót vui vầy đây đó,
Đàn vịt trời nương gió lao xao.
Sen vơi tiếng xuyến vơi theo,
Lẫn trong sông nước tiếng chèo ca vang.
Rừng cây qụa đã về ngang,
Thuyền sen về lại cung hoàng Kiến Chương.
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài dịch tới :
THÁI LIÊN KHÚC 採 蓮 曲 của Vương Bột, người đứng
đầu của SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT 初 唐 四 傑.
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét