Thứ Hai, 19 tháng 8, 2024

Góc Đường Thi : Chùm thơ KHÚC HÁT HÁI SEN (2) (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Đường Thi : 

            Chùm thơ KHÚC HÁT HÁI SEN (2)

                      
                          
                               
                         Thái Liên Khúc  採 蓮 曲 
   
                         江 南 採 蓮 女,   Giang Nam thái liên nữ,
                         春 波 秋 水 間.     Xuân ba thu thủy gian.
        Có nghĩa :
                           Giang Nam cô gái hái sen,
                  Sóng xuân nước biếc hoa chen lẫn người.

       Từ đời Lưỡng Hán cho đến Nam Bắc Triều hình ảnh của các cô
 gái hái sen, đất Giang Nam được vẽ thành tranh, ca thành thơ, tấu
 thành khúc hát giữa vùng trời nước mênh mông sông ngòi chằn 
chịt của miền quê hương sông nước Giang Nam với phong cảnh 
hữu tình và các cô yểu điệu thục nữ xinh tươi lồng trong những
 chuyện tình nên thơ chất phát dễ đánh động lòng người.
       Kịp đến đời nhà Đường, thời đại hoàng kim của thi ca, thì các
 thi nhân đua nhau vẽ nên những bức tranh "Hái Sen" bằng thi ca
 qua các bài thơ Cổ phong, Thất ngôn tuyệt cú, Ngũ ngôn tuyệt cú...
 như :

6. Bài thơ VIỆT NỮ TỪ 越 女 詞 (其三) của Thi Tiên Lý Bạch 李 白:

           越 女 詞            VIỆT NỮ TỪ
           (其 三)                 (Kỳ tam)
         耶 溪 採 蓮 女,     Da Khê thái liên nữ,
         見 客 棹 歌 回。     Kiến khách trạo ca hồi.
         笑 入 荷 花 去,     Tiếu nhập hà hoa khứ,
         佯 羞 不 出 來。     Dương tu bất xuất lai.


* Chú thích :
  
  - VIỆT NỮ TỪ 越 女 詞 : Bài ca từ về các cô gái đất Việt. 
VIỆT ở đây là Ngô Việt 吳 越 vùng sông nước của miền nam Trung
 Hoa từ các tỉnh Giang Tô, Chiết Giang... trở về Nam; là lãnh địa
 của nước Ngô và nước Việt thời Chiến Quốc.
    - DA KHÊ 耶 溪 : là Nhược Da Khê 若 耶 溪 là Khe suối Nhược
 Da từ Nhược Da Sơn chảy thành sông về hướng bắc đổ vào sông
 Vận Hà. Bên bờ sông có một bãi đá nổi tiếng là Hoán Sa Thạch 
浣 紗 石, tương truyền đây là nơi ngày xưa người đẹp Tây Thi và 
các cô gái nước Việt thường giặt tơ giặt lụa nơi ny.
    - THÁI LIÊN NỮ 採 蓮 女 : Từ dùng gọi chung cho "Các cô gái
 hái sen".
    - TRẠO 棹 : là Mái chèo; Động từ có nghĩa là Chèo.
    - DƯƠNG 佯 : là Giả đò, giả bộ. DƯƠNG TU 佯 羞 : là Làm 
bộ mắc cở, e thẹn.

* Nghĩa bài thơ :
                     BÀI CA TỪ VỀ CÁC CÔ GÁI VIỆT
         Các cô gái hái sen bên dòng khe Nhược Da của đất Việt, 
trông thấy khách lạ bèn vừa hát vừa trở chèo, mĩm cười bơi vào
 trong đám hoa sen. Làm bộ như là thẹn thùng ở mãi trong đó 
chẳng chịu bơi ra.

* Diễn Nôm :
                     VIỆT NỮ TỪ (3)
                 
                                      

                   Cô hái sen khe Da,
                   Thấy khách trở chèo ca.
                   Cười len vào rừng lá,
                   Thẹn thùa chẳng chịu ra !
        Lục bát :
                   Da Khê cô gái hái sen,
                   Chợt thấy khách bèn  trở lái vào trong. 
                   Tiếng ca vẳng trong sen hồng,
                   Hổ ngươi cả thẹn đừng hòng đợi ra.  
                                           Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

       Cuộc sống nông tang của các cô cậu vùng sông nước Giang
 Nam còn được thể hiện qua việc hái sen của các nàng thôn nữ. 
Thi Tiên Lý Bạch đã ghi lại trong một khoảnh khắc rất nên thơ
 trong một đêm thu trăng sáng qua bài LỘC THỦY KHÚC 淥
水 曲 trong Nhạc phủ như sau:

7. Bài thơ LỘC THỦY KHÚC 淥 水 曲 của 
Thi Tiên LÝ BẠCH 李 白 :                         

           淥 水 曲           LỘC THỦY KHÚC

         淥 水 明 秋 月,     Lộc thủy minh thu nguyệt,
         南 湖 採 白 蘋。  Nam hồ thái bạch tần.
         荷 花 嬌 欲 語,     Hà hoa kiều dục ngữ,
         愁 殺 盪 舟 人。   Sầu sát đãng chu nhân.
      
                                     
 Chú thích :
    - LỘC THỦY KHÚC 淥 水 曲 : LỘC THỦY là Nước có màu 
xanh, chỉ nước thật trong; Nhưng LỘC THỦY KHÚC là tên 
của một khúc hát trong Nhạc Phủ.
    - NAM HỒ 南 湖 : là Phía nam của Hồ Động Đình. Động Đình
 Hồ là hồ nước lớn nhất Giang Nam và cũng là hồ nước lớn nhất
 của Trung Hoa. 
    - BẠCH TẦN 白 蘋 : là Bông súng trắng, thường mọc lẫn với
 hoa sen, vì cùng là loài tảo rể ăn xuống bùn, lá nổi trên mặt nước
 và nở hoa màu trắng. Trong cổ nhạc ta cũng có bài ca Vọng Cổ 
BÔNG SÚNG TRẮNG của soạn giả Viễn Châu do danh ca Minh
 Cảnh và nữ nghệ sĩ Lệ Thủy trình bày:
      

    - KIỀU 嬌 : là Yêu kiều đẹp đẽ dễ thương; KIỀU DỤC NGỮ
 嬌 欲 語 là Đẹp đến như muốn nói, đẹp nũng nịu dễ thương.
    - SẦU SÁT 愁 殺 : là Buồn muốn chết; buồn não nuột; buồn 
thắm thía.
    - ĐÃNG CHU 盪 舟 : là lúc lắc cho thuyền đi tới; là Chèo 
thuyền.

* Nghĩa bài thơ :
                        KHÚC HÁT NƯỚC TRONG
        Làn nước trong xanh làm cho trăng thu như càng sáng hơn
 lên; Ta thả một chiếc thuyền con ở phía nam Hồ Động Đình để 
hái bông súng trắng; Nhìn thấy các hoa sen chen lẫn trong đám 
lá xanh đẹp não nùng như muốn nói nên lời; Làm cho người 
chèo thuyền là ta đây cảm thấy như có một nỗi buồn da diết 
đến lặng người.
        Nhìn thấy đóa hoa sen vừa chớm nở, các cánh hoa còn chưa
 bung hẵn ra như cô thiếu nữ đang hàm tiếu còn e ấp như muốn
 cười lại thôi, muốn nói lại ngừng; vẻ đẹp thẹn thùa đáng yêu dễ
 làm say đắm lòng người: "Hà hoa kiều dục ngữ, Sầu sát đãng 
chu nhân"... Lời thơ đã dứt, nhưng tình ý như còn vương vấn 
mãi với người "đãng chu" trên mặt hồ mênh mông mây nước!...

* Diễn Nôm :
                       LỘC THỦY KHÚC
             
                                  
                    Nước trong sáng trăng thu,
                    Súng trắng hồ nam hái.
                    Sen đẹp như muốn nói...
                    Sầu chết người "đãng chu" !
       Lục bát : 
                    Nước trong càng sáng trăng thu,
                    Súng trắng tìm hái bờ hồ phía nam.
                    Lá xanh bông trắng nhị vàng...
                    Tựa như muốn nói sầu sang người chèo !
                                               Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

       Không phải chỉ có các thi nhân làm thơ "Hái Sen" mà đến
 cả ông vua tài hoa văn võ song toàn Đường Thái Tông 唐 太 宗 
Lý Thế Dân 李 世 民 cũng có bài thơ làm theo thể Cổ Phong là 
"Thái Phù Dung 採 芙 蓉" như sau:

              
                     Đường Thái Tông Lý Thế Dân

8. Bài thơ THÁI PHÙ DUNG 採 芙 蓉 của 
Đường Thái Tông 唐 太 宗 :

            採 芙 蓉                           THÁI PHÙ DUNG

 結 伴 戲 方 塘,攜 手 上 雕 航。  
Kết bạn hí phương đường,  Huề thủ thướng điêu hàng.
 船 移 分 細 浪,風 散 動 浮 香。 
 Thuyền di phân tế lãng,   Phong tán động phù hương.
 游 鶯 無 定 曲,驚 鳧 有 亂 行。 
 Du oanh vô định khúc,     Kinh phù hữu loạn hàng.
 蓮 稀 釧 聲 斷,水 廣 棹 歌 長。 
 Liên hi xuyến thanh đoạn, Thủy quảng trạo ca trường.
 棲 烏 還 密 樹,泛 流 歸 建 章。  
Thê ô hoàn mật thụ,       Phiếm lưu quy Kiến Chương.
                
                                               
 Chú thích :
    - THÁI PHÙ DUNG 採 芙 蓉 : là Hái hoa Phù dung; là Hái 
Sen. Như ta đã biết ở bài trước, hoa Sen còn có tên là THỦY 
PHÙ DUNG là Hoa Phù dung ở dưới nước.
    - KẾT BẠN 結 伴 : là Vầy đoàn với nhau; là Tụ tập; là KẾT 
BẠN.
    - PHƯƠNG ĐƯỜNG 方 塘 : Nghĩa đen là "Cái ao vuông". 
Nghĩa phát sinh là : Cái ao lớn rộng chừng nửa mẫu đất và có 
làn nước trong như gương.
    - ĐIÊU HÀNG 雕 航 : Những chiếc thuyền có vẽ vời điêu 
khắc đẹp đẽ của giới quý tộc nhà giàu ngày xưa dùng để du 
ngoạn dưới sông nước; còn được gọi là HỌA PHẢNG 畫 舫.
    - TẾ LÃNG 細 浪 : Những gợn sóng nhỏ; Sóng gợn lăn tăn.
    - PHÙ HƯƠNG 浮 香 : Hương thơm của hoa sen thoang
 thoảng như nổi trên mặt ao.
    - DU OANH 游 鶯 : Những con chim hoàng oanh bay nhảy 
hót líu lo như đang dạo chơi.    
    - KINH PHÙ 驚 鳧 : Làm giật mình những con le le, vịt trời.
    - XUYẾN THANH 釧 聲 : Tiếng leng keng của các vòng đeo 
tay (của Cung nữ).
    - TRẠO CA 棹 歌 : Tiếng hát của những trạo phu (người 
chèo thuyền).
    - MẬT THỤ 密 樹 : Những hàng (rừng) cây rậm rạp.
    - KIẾN CHƯƠNG 建 章 : Tên một cung trong hậu cung của
 nhà vua. Ngoài Kiến Chương còn có cung Chiêu Dương như 
trong bài thơ TIỆP DƯ OÁN 婕 妤 怨 của Hoàng Phủ Nhiễm
 皇 甫 冉 đời Đường:

        花 枝 出 建 章,   Hoa chi xuất Kiến Chương,
        鳳 管 發 昭 陽。   Phụng quản phát Chiêu Dương.
        借 問 承 恩 者,   Tá vấn thừa ân giả,
        雙 蛾 幾 許 長?   Song nga kỷ hứa trường?
      Có nghĩa :
                   Cành hoa nở cung KIẾN CHƯƠNG,
                   Sáo phượng dìu dặc CHIÊU DƯƠNG rộn ràng.
                   Hỏi người yêu dấu điện vàng,
                   Đã dài được mấy hai hàng mày nga ?!
                    
                            

* Nghĩa bài thơ :
                          HÁI HOA PHÙ DUNG 
        Các cung nhân trong cung cùng vầy đoàn vui chơi với nhau 
bên hồ sen rộng lớn, rồi cùng nắm tay nhau bước lên những chiếc 
thuyền hái sen đẹp đẽ. Thuyền lướt đi nhè nhẹ chia đôi làn nước 
đang gợn sóng tăn tăn. Gió hiu hiu lay động làm cho mùi hương 
của hoa sen như trôi nổi thoang thoảng trên mặt hồ. Những con 
chim hoàng oanh bay hót những khúc nhạc líu lo vô định và đàn 
vịt trời như giật mình bay tán loạn chẳng thành hàng ngũ gì nữa
 cả. Sen hái đã gần xong nên tiếng leng keng trên vòng đeo tay của
 các người đẹp cũng thưa dần, trong khi tiếng hát của các tay chèo
 vẫn còn văng vẳng kéo dài ra. (Trời về chiều) Các con qụa cũng 
đã tìm về nương tựa ở các hàng cây rậm rạp và dòng nước trôi nổi
 cũng như đang đưa thuyền tìm về với cung Kiến Chương.

       Bài thơ mang khẩu khí của một quân vương đang ngắm nhìn 
cảnh vui chơi trong một buổi hái sen của các cung nhân trong cung
 vua với đầy đủ thanh sắc của ngũ giác quan : Nhìn các cung phi
 cùng vầy đoàn vui vẻ kéo lên thuyền, nhìn thuyền đi trong gió nhẹ
 trong các gợn sóng có lẫn mùi hương sen thoang thoảng, hòa vào 
trong cảnh thiên nhiên với oanh hót vịt bay; tiếng cười nói và vòng
 tay leng keng của các người đẹp chập chờn lẫn khuất trong tiếng
 hát hò của các trạo phu trên sông nước... Qủa là một bức tranh 
toàn bích. Cảnh hái sen vui chơi trong cung như là một màn vũ
 đạo lớn của các cung nhân hòa vào cảnh thiên nhiên nên thơ hữu
 tình như một bức tranh "Thái Liên Đồ" đầy thi vị dưới ngòi bút 
của một quân vương thi sĩ.
       Bài thơ còn thể hiện tài hoa của ông vua tài tử với mười câu là
 năm cặp đối nhau chan chát nhưng lại rất sống động một cách 
thật tự nhiên không chút gò bó nào cả !

* Diễn Nôm :
                         THÁI PHÙ DUNG
                     
                                
                     Vầy đoàn bên hồ nước,
                     Nắm tay bước xuống thuyền.
                     Thuyền đi chia sóng lướt,
                     Gió thổi đưa hương sang.
                     Líu lo oanh vui hót,
                     Giật mình vịt lìa đàn.
                     Sen vơi xuyến tay nhặt,
                     Nước lớn tiếng ca vang.
                     Quạ chiều nương rừng rậm,
                     Kiến Chương thuyền về ngang.
  Song thất Lục bát :
                     Cùng vầy đoàn vui chơi bến nước,
                     Nắm tay nhau vui bước xuống thuyền.
                     Thuyền len sóng nhẹ lướt êm,
                     Hương sen theo gió bồng bềnh đâu đây,

                     Tiếng oanh hót vui vầy đây đó,
                     Đàn vịt trời nương gió lao xao.
                     Sen vơi tiếng xuyến vơi theo,
                     Lẫn trong sông nước tiếng chèo ca vang.  
 
                     Rừng cây qụa đã về ngang,
                     Thuyền sen về lại cung hoàng Kiến Chương.  
                                            Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
                        
                 
       Hẹn bài dịch tới :
                THÁI LIÊN KHÚC 採 蓮 曲 của Vương Bột, người đứng
 đầu của SƠ ĐƯỜNG TỨ KIỆT 初 唐 四 傑.

                                                            杜 紹 德
                                                         Đỗ Chiêu Đức              


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thành Ngữ Điển Tích 114 : TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH.

  Thành Ngữ Điển Tích 114 :                                 TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH. Ao Chuôm  TRÌ ĐƯỜNG 池塘 là Ao chuôm, ao đầm, ao hồ...