Thứ Tư, 28 tháng 8, 2024

Góc Đường Thi : Chùm thơ KHÚC HÁT HÁI SEN (4) (Đỗ Chiêu Đúc)

 Góc Đường Thi : 

       Chùm thơ  KHÚC HÁT HÁI SEN  (4)

                   
                                 Thái Liên Khúc
            
       Hái dâu chăn tằm, hái sen hái súng để cải thiện cuộc sống... đều là những công việc lao động đẹp đẽ của phụ nữ từ thời thượng cổ đến nay. Nhưng do hoàn cảnh lao động nên các nàng hái lá dâu trong những rừng dâu râm rạp mát mẻ nên thơ lại có dịp hẹn hò với các chàng nên thường bị mang tiếng là "Trên Bộc Trong Dâu", chữ Nho là TANG TRUNG BỘC THƯỢNG 桑 中 濮 上. Theo sách Lễ Ký 禮 記, chỉ các trai gái của nước Vệ thời Chiến Quốc thường hò hẹn nhau đến rừng dâu trên sông Bộc để hát hò rồi xảy ra chuyện dâm loạn với nhau. Không thanh cao trong sáng như các cô gái hái sen thả một chiếc xuồng con trên sông nước. Có gặp được các chàng ý trung nhân thì cũng chỉ liếc mắt đưa tình hay cúi đầu cười e thẹn, họa hoằn lắm, gan dạ lắm thì cũng chỉ cặp đôi hai thuyền lại để thăm hỏi vài lời và ngắm nhìn nhau cho mãn nhãn là cùng... 
      Sau đây, ta hãy đọc những bài thơ THÁI LIÊN KHÚC diễn tả lại cuộc sống lao động lành mạnh và lại rất nên thơ của các cô gái hái sen lớn lên trong vùng sông nước Giang Nam với bạt ngàn sen súng...

10. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Lưu Phương Bình đời Đường :

          採 蓮 曲               THÁI LIÊN KHÚC

        落 日 清 江 裏,     Lạc nhật thanh giang lý,
        荊 歌 豔 楚 腰。     Kinh ca diễm Sở yêu.
        採 蓮 從 小 慣,     Thái liên tòng tiểu quán,
        十 五 即 乘 潮。     Thập ngũ tức thừa triều !
                 劉 方 平                     Lưu Phương Bình
             
                        

* Chú thích :
    - THÁI LIÊN KHÚC 採 蓮 曲 còn có tên là "THÁI LIÊN NỮ 採 蓮 女" là một trong bảy khúc hát của GIANG NAM LỘNG 江 南 弄 là những điệu hát hò trên sông nước của xứ Giang Nam.
    - KINH CA 荊 歌 : là những khúc hát hò trên sông nước của đất Kinh Sở thời Chiến Quốc ngày xưa (thuộc tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc hiện nay). 
    - SỞ YÊU 楚 腰 : là Eo của con gái nước Sở. Tương truyền Sở Linh Vương thích các cô gái có eo thon, nên các người đẹp trong nước "thi nhau nhịn ăn" để có được cái eo thon đẹp, nên SỞ YÊU là cái EO vừa Thon vừa Đẹp.
    - TÒNG TIỂU QUÁN 從 小 慣 : QUÁN là Tập Quán, là Thói quen, nên TÒNG TIỂU QUÁN là Từ nhỏ đã quen rồi.
    - THỪA TRIỀU 乘 潮 : là Cởi sóng; là Chèo thuyền lướt trên sóng mà đi. 

* Nghĩa bài thơ :
        Mặt trời chen lặn trên dòng nước trong xanh, tiếng hát hò điệu Kinh Sở vang vang trên sông nước bởi những cô gái yểu điệu với chiếc eo Sở thon đẹp. Từ lúc còn nhỏ các cô đã dần quen với công việc hái sen, nên khi mới mười lăm tuổi thì đã dám một mình chèo thuyền cởi sóng lướt trên sông nước để đi hái sen rồi! 

* Diễn Nôm :
                         THÁI LIÊN KHÚC

                       

                     Chiều xuống nước trong veo,
                     Tiếng ca nàng nhỏ eo. 
                     Hái sen từ tấm bé, 
                     Mười lăm vượt sóng chèo !
         Luc bát :
                     Nắng chiều buông, nước sông trong,
                     Tiếng ca Kinh Sở đẹp lòng eo thon.
                     Hái sen từ nhỏ đã lờn,
                     Mười lăm vượt sóng há sờn lòng đây !  
                                      Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

11. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Thôi Quốc Phụ đời Đường : 

              採 蓮 曲            THÁI LIÊN KHÚC

           玉 漵 花 爭 發,    Ngọc tự hoa tranh phát,
           金 塘 水 亂 流。    Kim đường thủy loạn lưu.
           相 逢 畏 相 失,    Tương phùng uý tương thất,
           並 著 木 蘭 舟。    Tịnh chước Mộc Lan chu.    
                     崔 國 輔                        Thôi Quốc Phụ

                               

* Chú thích :
    - NGỌC TỰ 玉 漵 : TỰ là Bờ nước, bến nước, nên NGỌC TỰ có nghĩa là Bến nước có làn nước trong như ngọc. 
    - HOA TRANH PHÁT 花 爭 發 : là Hoa đua nhau nở rộ.
    - KIM ĐƯỜNG 金 塘 : ĐƯỜNG là Bờ đê chạy dọc theo ven sông, nên KIM ĐƯỜNG là Bờ đê rực rỡ vàng lên trong ánh nắng. 
    - THỦY LOẠN LƯU 水 亂 流 : Chỉ làn nước cuồn cuộn chảy cuốn theo bờ đê. 
    - TỊNH CHƯỚC 並 著 : TỊNH 並 là chữ Hội Ý, do hai chữ LẬP 立 là Đứng ghép sát vào nhau mà thành, nên TỊNH là Song song, là Ngang bằng nhau, TỊNH CHƯỚC là Làm cho ngang bằng nhau; ghép lại cho song song.
    - MỘC LAN CHU 木 蘭 舟 : Thuyền làm bằng cây Mộc Lan. Theo "THUẬT DỊ KÝ 述 異 記" ghi lại: Trên bến sông Tầm Dương có trồng nhiều cây Mộc Lan. Xưa Ngô vương Hạp Lư dùng cây nầy để cất cung điện; còn ở bãi Thất Lý trong sông thì Lỗ Ban đã đóng cây Mộc Lan làm thuyền, gọi là Mộc Lan Chu.

* Nghĩa bài thơ :
        Làn nước trong lắp lánh như ngọc bên bến nước, các đóa hoa sen tranh nhau đua nở; Những chiếc thuyền hái sen qua lại bên bờ đê rực lên dưới ánh nắng vàng và dòng nước cuồn cuộn chảy. Nên khi hai thuyền gặp nhau sợ bị dòng nước cuốn cho xa nhau, (chàng với nàng) mới buộc cho hai chiếc thuyền bằng Mộc Lan lại cho đi song song với nhau.
        Câu "Tương phùng uý tương thất, 相 逢 畏 相 失" là "Gặp nhau rồi lại sợ phải mất nhau" mới ý vị làm sao ấy! Sợ hai chiếc thuyền bị nước cuốn cho xa nhau thì ít; Sợ gặp nhau mà chẳng nói được câu nào với nhau mới là điều cùng lo lắng. "Úy tương thất 畏 相 失" Sợ mất nhau, đã nói lên cái tâm lý yêu thương nhau thắm thiết của đôi lứa ngày xưa rất hiếm khi có dịp cùng nhau gặp gỡ để giải bày nỗi lòng tâm sự..

* Diễn Nôm :
                       THÁI LIÊN KHÚC    
                
                         

                     Bờ nước hoa đua nở,
                     Bờ đê nước cuộn trôi.
                     Gặp nhau sợ chia cắt,
                     Thuyền lan buộc song đôi !
         Lục bát :
                     Nước trong như ngọc đầy hoa,
                     Đê vàng nước cuốn thuyền qua lại nhiều.
                     Gặp nhau sợ mất người yêu,
                     Mộc Lan thuyền buộc cùng chiều song song.
                                      Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

12. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Bồ Tùng Linh đời Thanh : 

                採 蓮 曲                         THÁI LIÊN KHÚC
   兩 船 相 望 隔 菱 茭,     Lưỡng thuyền tương vọng cách lăng                                                   giao,
   一 笑 低 頭 眼 暗 拋;     Nhất tiếu đê đầu nhỡn ám phao.
   他 日 人 知 與 郎 遇,     Tha nhật nhân tri dữ lang ngộ,
   片 言 誰 信 不 曾 交?     Phiến ngôn thùy tín bất tằng giao?
                    蒲 松 齡                                      Bồ Tùng Linh
            
                               

* Chú thích :
    - TƯƠNG VỌNG 相 望 : là Nhìn nhau; là Đối diện, là Ngang mặt nhau.
    - LĂNG GIAO 菱 茭 : LĂNG là củ Ấu; GIAO là Bồn bồn. Nói chung là các loại thủy tảo sống trong ao hồ, như bài trước ta đã gặp từ BẠCH TẦN 白 蘋 là Bông súng trắng vậy... Tất cả các loại nầy đều mọc lẫn với hoa sen, nhưng thường thì bị sen che khuất.
    - NHỠN ÁM PHAO 眼 暗 拋 : PHAO là Ném; ÁM là Len lén; NHỠN là Mắt, nên NHỠN ÁM PHAO là "Len lén ném con mắt" có nghĩa là: Trộm nhìn nhau, Len lén nhìn nhau, liếc nhìn nhau...
    - THA NHẬT 他 日 : Một ngày nào đó (trong tương lai).
    - PHIẾN NGÔN 片 言 : là Lời nói phiến diện; Lời nói chỉ của một bên.
    - BẤT TẰNG 不 曾 : là Không từng; là Không hề, Chưa hề...

* Nghĩa bài thơ :
        Hai chiếc thuyền hái sen xa xa đối diện nhau được ngăn cách bởi hoa sen hoa ấu hoa bồn bồn. Chỉ dám cúi đầu cười e thẹn và len lén nhìn chàng mà thôi. Rồi một ngày nào đó người ta biết được em đã gặp chàng trong lúc hái sen, với lời nói phiến diện của em, đâu có ai tin là mình không từng giao tiếp trao đổi gì nhau cả đâu?... Đã vậy thì...
     ... Sao ta không nhân dịp nầy mà tỏ bày nỗi niềm tâm sự với nhau cho thỏa lòng mong ước. Chỉ biết liếc mắt trộm nhìn nhau thì có uổng phí đi cái thời gian và cái cơ hội ngàn năm một thuở nầy đi chăng? Trước sau gì cũng "mang tiếng" là đã gặp mặt nhau khi hái sen rồi, thôi thì ta cứ cặp thuyền lại mà cùng nhau giải bày tâm sự, cùng nhau thổ lộ tâm tình cho... thỏa lòng mong ước để vơi đi niềm tâm sự !...

* Diễn Nôm :
                           THÁI LIÊN KHÚC
                      
                        

                  Hai thuyền ngang mặt ấu sen rào,
                  Cười thẹn cúi đầu ánh mắt trao.
                  Hôm khác người hay ta gặp gỡ,
                  Ai tin ta chẳng nói lời nào ?
      Lục bát :
                  Hai thuyền cách bởi ấu sen,
                  Cúi đầu cười mĩm mắt len lén nhìn.
                  Ngày sau người biết chuyện mình...
                  Ai tin ta chỉ ngắm nhìn nhau thôi ?!
                                   Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

13. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Lý Trung đời Đường :

             採 蓮 女                      THÁI LIÊN NỮ

  晚 凉 含 笑 上 蘭 舟,    Vãn lương hàm tiếu thướng lan chu,
  波 底 紅 妝 影 欲 浮。    Ba để hồng trang ảnh dục phù.
  陌 上 少 年 休 植 足,    Mạch thượng thiếu niên hưu thực túc,
  荷 香 深 處 不 回 頭。    Hà hương thâm xứ bất hồi đầu !
                   李 中                                            Lý Trung
        
                    

* Chú thích :
    - THÁI LIÊN NỮ 採 蓮 女 : "Cô gái hái sen" cũng là tên của một khúc hát trong Nhạc Phủ của thời Nam Bắc Triều.
    - VÃN LƯƠNG 晚 凉 : là Buổi chiều mát mẻ.
    - THƯỚNG LAN CHU 上 蘭 舟 : là "Lên thuyền lan"; Ta nói là "Xuống thuyền lan".
    - BA ĐỂ 波 底 : Ở dưới làn sóng; ở đáy sóng.
    - ẢNH DỤC PHÙ 影 欲 浮 : Cái bóng dưới nước như muốn nổi lên trên mặt nước vậy.
    - MẠCH THƯỢNG 陌 上 : Đường đi trên bờ ruộng; ở đây chỉ đường trên bờ sông.
    - HƯU 休 : là nghỉ ngơi; nhưng ở đây có nghĩa là ĐỪNG, là ChỚ...
    - THỰC TÚC 植 足 : Đứng chôn chân một chỗ (để mong đợi...) 
    - THÂM XỨ 深 處 : Chỉ Chỗ sâu trong cùng của rừng sen rậm rạp.
    - BẤT HỒI ĐẦU 不 回 頭 : là "Không quay đầu nhìn lại"; cũng có nghĩa là "Không quay đầu trở ra".

* Nghĩa bài thơ :
                                       CÔ GÁI HÁI SEN
        Trong buổi chiều trời mát mẻ, nàng mỉm cười bước xuống chiếc thuyền lan. Dưới làn sóng gợn lăn tăn, cái bóng hồng vừa trang điểm của nàng như muốn nổi lên trên mặt nước. Chàng thiếu niên trên bờ đê ơi đừng đứng chôn chân ở đó nữa, vì hương thơm của hoa sen đã lôi cuốn nàng đi sâu vào trong rừng sen nên sẽ không quay đầu lại nữa đâu.

* Diễn Nôm :
                             THÁI LIÊN NỮ  
                       
                          

                   Chiều trời mát mẻ xuống thuyền lan,
                   Sóng nước chập chờn dáng điểm trang.
                   Trên bến chàng ơi đừng đứng đợi,
                   Hương sen dẫn thiếp ngút trong ngàn !
      Lục bát :
                   Mỉm cười chiều mát xuống thuyền,
                   Bóng hồng như nổi giữa miền sóng xô.
                   Trên bờ chàng trẻ ngẩn ngơ...
                   Hương sen sâu thẳm bao giờ trở ra !
                                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

14. Bài thơ THÁI LIÊN KHÚC của Hạ Tri Chương đời Đường :

               採蓮曲                    THÁI LIÊN KHÚC
 稽 山 罷 霧 鬱 嵯 峨,      Kê sơn bãi vụ uất tha nga,
 鏡 水 無 風 也 自 波。     Kính thủy vô phong dã tự ba.
 莫 言 春 度 芳 菲 盡,      Mạc ngôn xuân độ phương phi tận,
 別 有 中 流 採 芰 荷。     Biệt hữu trung lưu thái kỵ hà.
                   賀 知 章                          Hạ Tri Chương
         
                                  

* Chú thích :
    - KÊ SƠN 稽 山 : là núi Cối Kê, còn có tên là Mao Sơn 茅 山, nằm ở phía bắc của huyện Thiệu Hưng thuộc tỉnh Chiết Giang ngày nay.
    - BÃI VỤ 罷 霧 : VỤ là Sương mù. Bãi Vụ là Sương mù tan đi.
    - UẤT 鬱 : là Rậm rạp xanh om.
    - TA NGA 嵯 峨 : chỉ Núi cao chớm chở, nhấp nhô hết ngọn nầy đến ngọn khác.
    - KÍNH THỦY 鏡 水 : là Gương nước, chỉ Nước trong như gương, như 2 câu thơ trong bài "Nhớ con sông quê hương" của Tế Hanh, một thi sĩ thời Tiền Chiến:

                  Quê hương tôi có con sông xanh biếc,
                  NƯỚC GƯƠNG trong soi tóc những hàng tre... 

    - TỰ BA 自 波 : là Tự mình gợn sóng.
    - MẠC NGÔN 莫 言 : Đừng bảo rằng; Đừng nói là...
    - XUÂN ĐỘ 春 度 : là Mùa xuân đã độ qua, là mùa xuân đã đi qua rồi.
    - PHƯƠNG PHI 芳 菲 : PHƯƠNG là Thơm tho; PHI là Tươi tốt; nên PHƯƠNG PHI là chỉ chung hoa cỏ thơm tho tươi tốt của mùa xuân.
    - BIỆT HỮU 別 有 : Đặc biệt còn có; Ngoài ra còn có...
    - KỴ HÀ 芰 荷 : KỴ là loại củ ấu có 4 cạnh (Ấu 2 cạnh gọi là LĂNG 菱). HÀ là Sen. KỴ HÀ trong câu thơ cuối nầy ch chung HOA SEN và HOA ẤU.

* Nghĩa bài thơ :
                         KHÚC HÁT HÁI SEN
        Dãy núi Cối Kê sau lúc sương mù tan biến thì hiện ra chập chùng nhấp nhô những ngọn núi cao chớm chở. Soi bóng xuống làn nước trong như gương, tuy không có gió nhưng cũng tự gợn sóng lăn tăn. Đừng bảo rằng mùa xuân đã qua đi nên hương thơm và vẻ xanh tốt của lá hoa đều chấm hết. Đặc biệt trong mùa hè còn có thú thả thuyền theo dòng nước để hái hoa ấu, hoa sen, hoa súng...

* Diễn Nôm :
                          THÁI LIÊN KHÚC           
                  
                       

                    Kê Sơn sương tạnh lô nhô núi,
                    Gợn sóng nước trong chẳng gió len,
                    Đừng bảo xuân qua hoa lá tận,
                    Theo dòng ta hái ấu cùng sen !
       Lục bát :
                    Cối Kê sương tạnh núi xinh,
                    Nước gương không gió tự mình long lanh.
                    Xuân qua hoa cỏ hết xanh,
                    Theo dòng ta hái mấy cành ấu sen !
                                             Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

      Hẹn bài dịch tới !
                                                                 杜 紹 德
                                                             Đỗ Chiêu Đức




 Mời Xem :

Góc Đường Thi : Chùm thơ KHÚC HÁT HÁI SEN (3) (Đỗ Chiêu Đức)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thành Ngữ Điển Tích 114 : TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH.

  Thành Ngữ Điển Tích 114 :                                 TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH. Ao Chuôm  TRÌ ĐƯỜNG 池塘 là Ao chuôm, ao đầm, ao hồ...