Phiếm về :
Theo
Phật giáo, cơ thể con người là do Tứ Đại : Phong Thủy Hỏa Thổ, tức là
Đất Nước Gió Lửa kết hợp lại mà thành, nên bản thân con người đã có một
phần tư là lửa ở trong đó rồi, ngọn lửa đó cứ âm ỉ mãi trong ngũ tạng
lục phủ tạo nên sự ham muốn mãnh liệt mà ta gọi là Lửa Dục Vọng. Trong
văn chương Phật giáo thì gọi nhẹ nhàng hơn : Lửa Lòng. Như cụ Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều khi tu ở Quan Âm Các :
Lửa Lòng tưới tắt mọi đường trần duyên …
và như lời của Thúy Kiều đã phân bua với Vương Viên Ngoại khi ông muốn nàng từ giả sư Giác Duyên để theo mọi người về nhà đoàn tụ :
Sự đời đã tắt Lửa Lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng mà chi ?!
" Tắt Lửa Lòng " còn là một tiểu thuyết tình cảm lãng mạn nổi tiếng
của nhà văn Nguyễn Công Hoan, được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1933.
Tác phẩm này nhanh chóng trở nên phổ biến, và rất nhiều người chuyển
thể thành các vở kịch nói, phổ nhạc... trong số đó phải kể đến Soạn giả
Trần Hữu Trang đã biên kịch lại và chuyển thể thành vở cải lương năm
1936 với tên của 2 nhân vật đi vào huyền thoại kịch nghệ Việt Nam là "
Lan và Điệp ". Chuyện tình " Lan và Điệp "của Việt Nam ta có thể
sánh ngang với chuyện tình " Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài " của Trung
Hoa xưa, và còn có phần vượt trội hơn về mặt bình dân, được phổ biến
rộng rãi trong mọi tầng lớp quần chúng nhân dân. Nhớ khi xưa, yêu một cô
bạn cùng trường, tôi cũng lấy chuyện tình Lan và Điệp để ví dụ :
Anh với em như Điệp với Lan,
Thanh mai trúc mã đẹp muôn vàn.
Vỏ vẻ thơ Đường anh đọc thấy,
Chuyện mình sao giống khúc Trường Can...
Chả trách mối tình đầu học sinh tan vỡ theo khói mây như bao mối tình đầu khác !
Kìa bao mái nhà đang chờ ai
Kìa bao bếp hồng đang còn tươi
Thương nhớ lên đầy vơi...”
Kìa bao bếp hồng đang còn tươi
Thương nhớ lên đầy vơi...”
Ôi, qủa là những lời ca ray rức, não nuột làm xúc động lòng người xa xứ !... Bài hát " Về Dưới Mái Nhà " đã ăn sâu vào tâm thức của tôi khi tôi vừa mới lớn, khoảng cuối thập niên năm mươi của Thế Kỷ trước, lúc Tổng Thống Ngô Đình Diệm mới về nước chấp chánh, nên... đến bây giờ định cư trên đất Mỹ nầy, lời của bài hát càng âm ỉ râm rang hơn làm ray rức mãi lòng người viễn xứ như tôi, nhất là vào những ngày cận Tết với trời đông gía lạnh.....
寒夜客來茶當酒, Hàn dạ khách lai trà đương tửu,
竹爐湯沸火初紅。 Trúc lô thang phất hỏa sơ hồng.
尋常一樣窗前月, Tầm thường nhất dạng song tiền nguyệt,
才有梅花便不同。 Tài hữu mai hoa tiện bất đồng.
Có nghĩa :
Đêm đông bạn đến rượu thay trà,
Quanh bếp than hồng nước mới pha.
Bên cửa thường ngày trăng vẫn chiếu,
Thêm cành mai nữa, nhớ quê xa !...
Đêm đông bạn đến rượu thay trà,
Hỏa là Lửa, ngoài nghĩa Bếp Lửa ra, Hoả còn có nghĩa là Đèn Đóm, đèn
đuốc thắp lên ban đêm để vui chơi trong cung như nàng cung nữ thất sủng
nhìn về nơi có ánh đèn lửa tiệc tùng mà tủi thân tủi phận :
火照西宮知夜飲, Hỏa chiếu Tây cung tri dạ ẩm
分明復道奉恩時。 Phân minh phúc đạo phụng ân thì.
Có nghĩa :
Lửa chiếu Tây cung đang dạ tiệc,
Rõ ràng nơi đó hưởng ơn vua !
...và buồn như nàng cung nữ trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu :
Hóa công sao khéo trêu ngươi,
Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh.
... cũng là đèn lửa nhưng buồn vui có khác, và không chỉ có buồn vui, có những ánh đèn còn rất nên thơ, như đèn của lửa chài trong Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế :
江楓漁火對愁眠 Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
mà Tản Đà đã diễn Nôm rất nên thơ là :
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ...
... hay như hai ba đóm lửa lặp lòe của một bến đò xa xa trong đêm tối trong bài Đề Kim Lăng Độ của Trương Hỗ đời Đường :
金陵津渡小山樓, Kim Lăng tân độ tiểu sơn lâu,
一宿行人自可愁。 Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
潮落夜江斜月裡, Triều lạc dạ giang tà nguyệt lý
兩三星火是瓜州。 Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua Châu
Có nghĩa :
Kim Lăng bến nước cạnh đồi cao,
Lữ khách qua đêm tự cảm sầu.
Triều xuống trăng mờ chênh chếch chiếu,
Lặp lòe đóm lửa ấy Qua Châu !
Trong cảnh đêm khi nước thủy triều đang xuống dưới ánh trăng nghiêng nghiêng mờ chiếu, thấp thoáng hai ba đóm lửa đèn nhà ai như những vì sao lạc kia, chính là bến đò Qua Châu đối diện đó vậy ! Qủa là một bức tranh chấm phá với cảnh đèn đóm trong đêm vô cùng nên thơ và thi vị !
Lửa dịu dàng là thế, ấm áp là thế, nên thơ là thế... nhưng khi nổi " tam
bành " thì " Bà Hỏa " hoạn đến không buông tha cho ai cả, không
buông tha cho vật chất nào cả, mà thiêu rụi sạch sành sanh. Bão tố giật xập nhà
cửa, nước lụt cuốn trôi nhà cửa, nhấn chìm ghe xuồng... nhưng cũng còn vớt vát
lại được chút đồ đạc còn trôi nổi trên sông, chớ sau một cơn hỏa hoạn thì
tất cả còn lại chỉ là đống tro tàn của dĩ vãng mà thôi !
Lửa
còn đi liền với chiến tranh với các từ Binh Lửa, Khói Lửa, Tên lửa, Đạn lửa hay
Lửa Đạn là vùng lửa cháy đạn bay, là nơi tuyến đầu, nơi mà người ta bắn giết lẫn
nhau, là các vùng Hỏa Tuyến 火線, nơi mà ban đêm luôn có " Những đóm mắt Hỏa Châu 火珠 " soi
sáng chiến trường . Tội nghiệp cho tuổi trẻ Miền Nam, tội nghiệp cho các anh lính trẻ Việt Nam Cộng Hòa như tôi "
xếp bút nghiên theo việc binh đao " để đêm đêm phải tâm sự cùng " Những
ánh mắt Hỏa Châu " như trong bài hát của Nhạc sĩ Hàn Châu :
Có những đêm dài ... anh ngồi ...nhìn hỏa châu rơi ...
Nghe vùng tâm tư ... cháy đỏ ...xoay ngang lưng trời ...
Những đóm mắt hỏa châu, bừng lên trong màn tối ,
Như mắt em sáng ngời, theo anh đi ngàn lối ...
Những đêm không ngủ... anh ngồi tâm sự ...cùng hỏa ...châu rơi.....
Nghe vùng tâm tư ... cháy đỏ ...xoay ngang lưng trời ...
Những đóm mắt hỏa châu, bừng lên trong màn tối ,
Như mắt em sáng ngời, theo anh đi ngàn lối ...
Những đêm không ngủ... anh ngồi tâm sự ...cùng hỏa ...châu rơi.....
Qủa là tội nghiệp cho tuổi trẻ của Miền Nam khoảng thập niên 60-70 thế kỷ trước , tuổi trẻ của Việt Nam nói chung đã bị cuốn vào vòng chiến tranh ý thức hệ một cách oan uổng...
Ngày xưa, gọi chiến tranh là Phong Hỏa 烽火, là những lửa khói bốc lên do chiến loạn, mà cũng là những lửa khói được đốt lên để báo hiệu chiến tranh đang diễn tiến đến nơi nào, là những Phong Hỏa Đài 烽火台 dùng để cảnh báo cho dân chúng hậu phương biết trước mà tránh xa và nhất là để cho quan binh hậu phương biết đường mà ứng phó. Nên Phong Hỏa là chiến tranh như Đỗ Phủ đã viết về chiến loạn do An Lộc Sơn gây ra :
Phong Hỏa liên tam nguyệt 烽火連三月
là Chiến tranh kéo dài suốt ba tháng liền... đã gây ra rất nhiều chết chóc khổ đau tang thương khắp chốn, huống chi cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam kéo dài những ba mươi năm, nhân dân cả nước phải hứng chịu biết bao nhiêu là đau thương đồ thán do bom đạn gây ra !
Hỏa là Lửa, là Đèn đuốc là Đăng Hỏa 燈火. Hỏa là Tinh Hỏa 星火 là những vì
sao lắp lánh trên trời, là Hỏa Tinh 火星 một trong 4 hành tinh của Thái
Dương Hệ, có tên la-tinh là Mars. Theo khoa học giả tưởng trên Hỏa tinh
có Người Hỏa Tinh và có sự sống như trên Trái đất. Hoả Tiển 火箭 là Tên
Lửa, vừa là vũ khí sát thương, vừa là phương tiện chuyên chở trong và
ngoài không gian. Hỏa Thạch 火石 là Đá lửa, đá dùng để đánh lửa. Hỏa Sơn
火山 là núi lửa, là Hỏa Diệm Sơn 火焰山. Hỏa Khanh 火坑 là Cái Hầm Lửa, từ dùng
để chỉ các cô gái điếm sống cuộc sống đày đọa đồi trụy ngột ngạt như bị nhốt trong hầm lửa vậy, nên cụ
Nguyễn Du đã gọi là "Lửa Nồng" khi cho cô Kiều phân tách để Thúc Sinh
hiểu được là sống cảnh lẻ mọn bị vợ lớn ghen tuông hành hạ (giấm chua)
còn tội nghiệp hơn là sống đời kỹ nữ nữa :
Cúi đầu luồn xuống mái nhà
Giấm Chua lại tội bằng ba Lửa Nồng ! Hỏa còn dùng để chỉ vũ khí của quân đội như từ Hỏa Thương 火槍 là Súng Ống, Hỏa Dược 火藥 là Thuốc súng, Hỏa Lực 火力 là sức mạnh của vũ khí quân đội, Hỏa Tốc 火速 là Nhanh Chóng, Hỏa Công 火攻 là Tấn công bằng lửa, dùng lửa để Hỏa Thiêu 火燒 đốt cháy quân địch, như trận Hỏa Thiêu Xích Bích 火燒赤壁 của Khổng Minh Gia Cát Lượng đã đốt tiêu 81 vạn quân của Tào Tháo trên dòng sông Xích Bích vậy. Cuối cùng để nuôi sống quân đội hàng ngày còn có anh Hỏa Đầu Quân 火頭軍 mà sau nầy trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa gọi là Lính Nhà Bàn, còn Bộ đội Bắc Việt thì gọi là Anh Nuôi.
Giấm Chua lại tội bằng ba Lửa Nồng ! Hỏa còn dùng để chỉ vũ khí của quân đội như từ Hỏa Thương 火槍 là Súng Ống, Hỏa Dược 火藥 là Thuốc súng, Hỏa Lực 火力 là sức mạnh của vũ khí quân đội, Hỏa Tốc 火速 là Nhanh Chóng, Hỏa Công 火攻 là Tấn công bằng lửa, dùng lửa để Hỏa Thiêu 火燒 đốt cháy quân địch, như trận Hỏa Thiêu Xích Bích 火燒赤壁 của Khổng Minh Gia Cát Lượng đã đốt tiêu 81 vạn quân của Tào Tháo trên dòng sông Xích Bích vậy. Cuối cùng để nuôi sống quân đội hàng ngày còn có anh Hỏa Đầu Quân 火頭軍 mà sau nầy trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa gọi là Lính Nhà Bàn, còn Bộ đội Bắc Việt thì gọi là Anh Nuôi.
Ngoài trận hỏa công để đời nổi tiếng trong lịch sử thời Tam Quốc ra ,
còn một trận hỏa công rất đặc sắc nữa ở thời Xuân Thu Chiến Quốc, đó
chính là Hỏa Ngưu Trận 火牛陣. Theo Sử Ký Điền Đan Liệt Truyện...
Đời Yên Chiêu Vương, tướng Yên là Nhạc Nghị đem binh đánh Tề. Tướng Tề là Điền Đan cố giữ thành Tức Mặc. Năm 279 trước Công Nguyên, Yên Huệ Vương nối ngôi, Điền Đan dung kế ly gián để Yên vương dùng tướng Kỵ Kiếp thay cho Nhạc Nghị, đoạn lại dùng kế trá hàng để Kỵ Kiếp không phòng bị, rồi đang đêm gom hết cả ngàn trâu bò trong thành, buộc gươm đao nhọn vào sừng trâu, đuôi trâu buộc cỏ rơm có tẩm dầu, rồi đốt lửa lên, trâu bị nóng cắm đầu cắm cổ phóng về phiá quân Yên, lại cho 5000 lính cảm tử xung phong giết tới. Quân Yên đại bại, Kỵ Kiếp chết trận, Điền Đan thừa thế xua quân đánh chiếm lại hơn 70 thành đã bị mất.
Vì tích Hỏa Ngưu Trận ở trên mà trong văn học Việt Nam có một bài thơ vịnh Con Trâu Già rất hay như sau :
Một nắm xương khô, một nắm da
Bao nhiêu cái ách đã từng qua
Đuôi cùn biếng vẫy Điền Đan hỏa
Tai nặng buồn nghe Nịnh Thích ca
Sớm thả đồng đào ăn đủng đỉnh
Tối về chuồng quế thở nghi nga
Có người toan giết tô chuông mới
Ơn đức vua Tề, lại được tha.
Bài
thơ trên có người cho là của cụ Huỳnh Mẫn Đạt, có người cho là của Tam
Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Nhưng dù của ai thì đây vẫn là một bài thơ
hay.
Hỏa Thiêu Xích Bích Hỏa Ngưu Trận
Hỏa là Lửa, nhưng Hỏa Kê 火雞 không phải là Con Gà Lửa mà là con Gà Tây,
bình dân gọi là con Gà Lôi, ở Mỹ gọi là Turkey. Lễ Gà Lôi là Lễ Tạ Ơn
của Mỹ (ngày Thứ Năm của tuần thứ 3 trong tháng 11), hằng năm dân Mỹ phải "hỏa thiêu" đến mấy triệu con Hỏa Kê nầy để ăn mừng.
Hỏa Trùng còn gọi là Huỳnh Hỏa Trùng 螢火蟲, không phải là con sâu lửa mà
là con Đom Đóm với ánh đèn lân tinh chớp sáng phía sau đuôi trên các
ngọn cây bần ở quê tôi. Cũng như Hỏa Hầu 火候 không phải là con Khỉ Lửa,
mà là chỉ cái tiêu chuẩn mức độ đạt đến cở nào. Như hấp bánh còn thiếu
hỏa hầu nên bánh chưa thật chín thật ngon, Công phu luyện chưa tới hỏa
hầu nên chặt cục gạch còn chưa bể hai... Hỏa Hầu cũng không phải
là Tề Thiên Đại Thánh 齊天大聖, vì Tôn Ngộ Không 孫悟空 là con Thạch Hầu 石猴,
con khỉ từ trong đá nứt ra, chứ không phải là con khỉ lửa; chỉ sau khi
bị Thái Thượng Lão Quân đốt trong lò Bát quái bảy bảy bốn mươi chín ngày
ra, thì Tôn Ngộ Không mới có được Hỏa nhãn Kim tinh 火眼金睛, có nghĩa :
Con mắt rực như lửa và tròng mắt sáng như vàng có thể nhìn thấu mọi sự
vật do yêu quái biến hình. Nhưng Hỏa Xa là Xe Lửa, Hỏa Long 火龍
thì lại là con rồng lửa chính hiệu có màu đỏ rực như lửa. Gần đây, người
Hoa lại dùng từ Hỏa Oa 火鍋 là Cái Nồi Lửa để chỉ Cái Lẩu (cái Cù Lao) mà
ta thường ăn khi có tiệc.
Theo phép tạo chữ Nho ngày xưa, một chữ Hỏa 火 là Lửa; 2 chữ Hỏa chồng
lên nhau là Viêm 炎 là Nóng, ta có từ kép Viêm Nhiệt 炎熱 là Nóng nực; 3
chữ Hỏa ghép lại thành chữ Diễm 焱 là Lửa cháy rực rỡ, đọc là Diệm thì
đồng âm với từ Hỏa Diệm Sơn 火焰山 là Núi Lửa, HỎA DIỆM SƠN còn là từ dùng
để chỉ các bà các cô có thân hình với 3 vòng thật "nóng", thật gợi cảm, thật bốc lửa !
Những thành ngữ có chữ Hỏa 火 mà Hoa Việt đều thông dụng là :
* Hỏa thượng gia dầu 火上加油 : Ta nói là "Lửa cháy thêm dầu" hay là "Đổ thêm dầu vào lửa", ý nói đã không chửa cháy mà còn làm cho nó cháy lớn thêm hơn !
* Hỏa hải đao sơn 火海刀山 : Ta nói là "Núi đao biển lửa" để chỉ những nơi vô cùng nguy hiểm, những chỗ mất mạng như chơi !
* Can sài liệt hỏa 乾柴烈火 : là Củi khô lửa mạnh, ta nói là "Lửa gần rơm" lâu ngày cũng bén.
* Sấn hỏa đả kiếp 趁火打劫 : Thừa lúc lửa cháy để cướp đồ của người khác, ta nói là " Thừa nước đục thả câu".
* Phong hỏa liên niên 烽火連年 : Chiến tranh năm nầy liền năm khác, ta nói là " Chiến tranh dai dẳng" như cuộc nội chiến của Việt Nam ta ngày xưa làm cho quân dân đều chán ngán.
Trong Tăng Quảng Hiền Văn cũng có những câu ngạn ngữ rất thực tế như :
Viễn thủy nan cứu cận hỏa, 遠水難救近火,
Viễn thân bất như cận lân. 遠親不如近鄰。
Có nghĩa :
Nước xa không thể cứu được lửa gần ,
Bà con xa không bằng láng giềng gần.
Hay như câu :
Thành môn thất hỏa, 城門失火,
Ương cập trì ngư. 殃及池魚。
Có nghĩa :
Cửa thành bị lửa cháy, bị hỏa hoạn, thì làm cho lũ cá ở trong ao cũng bị tai ương, bị vạ lây, vì... người ta sẽ vét hết nước ở trong ao để chửa lửa, nên cá sẽ không còn nước để sống nữa ! Giới bình dân gọi là : "bị văng miểng", bị họa lan can !
Thành môn thất hỏa, 城門失火,
Ương cập trì ngư. 殃及池魚。
Có nghĩa :
Cửa thành bị lửa cháy, bị hỏa hoạn, thì làm cho lũ cá ở trong ao cũng bị tai ương, bị vạ lây, vì... người ta sẽ vét hết nước ở trong ao để chửa lửa, nên cá sẽ không còn nước để sống nữa ! Giới bình dân gọi là : "bị văng miểng", bị họa lan can !
Hỏa là Lửa cũng như Mộc là Cây là 2 nhân tố không thể thiếu trong đời
sống con người. Hỏa là Đăng Hỏa 燈火 là Đèn đóm để thắp sáng; là Hỏa Lô 火爐
là cái Lò lửa để nấu ăn. Trong thời đại văn minh hiện nay ta còn có
Điện Lô 電爐 là Lò điện, Mai Lô 煤爐 là Lò Gas... Lửa còn dùng để sưởi ấm,
nấu nướng chiên xào, chế biến thức ăn, xúc tác phản ứng hóa học trong
phòng thí nghiệm, để luyện kim... kể cả những hoạt động vui chơi như Bắn pháo bông, Đốt lửa trại... đều không thể xa rời được lửa. Thử nghĩ nếu một ngày không có lửa thì cuộc sống sẽ ra sao và thế giới nầy sẽ ra sao ?!
Những
đêm nguyện cầu, những đêm thắp nến, đều nhờ vào ngọn lửa của ánh nến để
thắt chặc thêm tình đoàn kết, để ung đúc thêm ý chí đấu tranh, để càng
hạ quyết tâm phấn đấu hơn để đạt mục đích cuối cùng. Ta hãy nghe lại lời
của bài hát Nhạc Rừng Khuya mà nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác khi ông
còn chưa đầy 20 tuổi :
... Bập bùng bấp bung ...đêm khuya thêm não nùng...
Lửa càng bừng cháy, siết tay nhau... chúng ta cùng múa
quanh lửa hồng... cháy trong rừng khuya
và...
... Lửa cháy, hăng lửa giục lòng dân ...đoàn kết
Lửa reo, vang lửa gào lòng ta ...nguồn sống
Lửa Tự Do ...muôn năm vẫn reo ...rừng ơi !
Nhạc sĩ Lam Phương khi sáng tác Nhạc Rừng Khuya
Trở lại với đề tài lúc ban đầu, theo quan niệm của Phật Giáo, cơ thể
con người là do TỨ ĐẠI : Đất Nước Gió Lửa khi đã đủ cơ duyên thì kết hợp
lại mà thành, nên khi chết đi thì thân Tứ Đại sẽ trả về cho Tứ Đại. Nhớ
năm 1963 khi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu xong thì còn lại ...
trái tim vẫn không chịu cháy trong lò thiêu lên đến 4000 độ C tại Đài
hỏa táng An dưỡng địa ở Phú Lâm (Sài Gòn). Thì ra, vẫn có những cái mà
lửa không thể thiêu rụi được, đó là Trái Tim của đấu tranh, tức là Ý Chí
Đấu Tranh thì không có ngọn lửa nào thiêu rụi được cả ! Xin được mượn 2
câu thơ sau đây trong bài thơ ca ngợi Hoà thượng Thích Quảng Đức để kết thúc cho bài phiếm luận nầy :
Thân Tứ Đại trả về Tứ Đại,
Tim của ngài tồn tại thế gian !
Lửa là Hỏa và Hỏa là Lửa. Lửa thiêu rụi tất cả, nhưng không thể thiêu rụi được Tinh thần đoàn kết và ý chí đấu tranh !
Lửa thiêu rụi tất cả, nhưng không thể thiêu rụi được Tinh thần đoàn kết và ý chí đấu tranh
Trả lờiXóa