Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2020

Góc Việt Cổ Thi : Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN (phần 1)

    Nguyễn Trung Ngạn 阮忠彥 (1289-1370) tự Bang Trực 邦直, hiệu Giới Hiên 介軒, sinh tại làng Thọ Hoàng, huyện Thiên Thi, tỉnh Hưng Yên. Nguyễn Trung Ngạn từ nhỏ đã thông minh xuất chúng, nổi tiếng thần đồng. Năm 15 tuổi (1304) ông đã đỗ hoàng giáp đời vua Trần Anh Tông, có trong tay bằng tiến sĩ (cùng khoa với Mạc Ðĩnh Chi), năm 24 tuổi được làm Giám quân, năm 28 tuổi đi sứ nhà Nguyên. Tính ông cương trực, tài kiêm văn võ, có nhiều đóng góp cho công việc xây dựng và bảo vệ đất nước lúc bấy giờ. Ông phò tá Vua Trần Minh Tông trong các chiến dịch bình định vùng Đà Giang và dẹp loạn ở Lào. Trong cuộc đời làm quan qua năm đời vua triều Trần, ông từng được phong là Đại Học Sĩ Trụ Quốc Hướng Huyện Bá, Thiếu Bảo Khai Quốc Nội Hầu... cuối cùng làm đến chức Ðại Hành Khiển tước Thân Quốc Công, thọ 82 tuổi.


       Dưới đây là những bài thơ tiêu biểu của ông.

1. Bài thơ Bắc Sứ Sơ Độ Lô Giang :

 北使初渡瀘江         Bắc Sứ Sơ Độ Lô Giang

叨持使節出京華,   Thao trì sứ tiết xuất Kinh hoa,
駐馬孤亭日未斜。   Trú mã cô đình nhật vị tà.
別酒一杯分客興,   Biệt tửu nhất bôi phân khách hứng,
瀘江東畔即天涯。   Lô Giang đông bạn tức thiên nha.
              阮忠彥                        Nguyễn Trung Ngạn
* Chú Thích :
  - Thao Trì 叨持 : THAO là Nhờ vào, ké vào, May mà có được. Nên THAO TRÌ : là may mắn mà cầm được. Bốn chữ THAO TRÌ SỨ TIẾT 叨持使節 : May mắn mà cầm được cây cờ tiết của sứ giả. Đây là cách nói khiêm nhượng, ý là : Rất hân hạnh được cử đi sứ (nơi đất Bắc). 
  - Kinh Hoa 京華 : là Kinh thành hoa lệ, chỉ kinh đô Thăng long.
  - Trú Mã 駐馬 : là Dừng ngựa lại để nghỉ ngơi.
  - Cô Đình 孤亭 : là cái trường đình cô độc, nơi để cho những người đưa tiễn nhau đặt tiệc tiễn hành.
  - Đông Bạn 東畔 : là Ở phía đông của bờ sông.
  - Thiên Nha 天涯 : là Chân trời, chỉ nơi rất xa xôi.

* Nghĩa Bài Thơ :
                  Lúc Mới Sang Đò Sông Lô Khi Đi Sứ Bắc Quốc

       Ta rất may mắn và hân hạnh ra khỏi kinh thành hoa lệ để đi sứ Bắc quốc. Dừng ngựa nơi trường đình cô độc khi trời chưa ngã bóng về chiều. Một chén rượu tiễn đưa chia cái tửu hứng của các người khách đến đưa tiễn. Khi đã qua được bên kia bờ đông của Lô Giang thì đã là nơi đất khách xa xôi như tận chân trời góc biển rồi !

* Diễn Nôm :
                    Bắc Sứ Sơ Độ Lô Giang

Giương cờ sứ tiết xuất kinh thành,
                Dừng ngựa bên đình bóng nắng hanh.
                Một chén rượu đưa chia tửu hứng,
                Sông Lô bên ấy ngút trời xanh !
  Lục bát :
                Ơn Vua cờ sứ rời kinh,
                Bóng chiều chưa ngã bên đình dừng chân.
                Tiễn đưa chén rượu bâng khuâng,
                Chân trời mờ mịt bên dòng sông Lô !

                                                    Đỗ Chiêu Đức
                  
 2. Bài thơ Bắc Sứ Túc Khâu Ôn Dịch :     

北使宿丘溫驛           Bắc Sứ Túc Khâu Ôn Dịch
  
挽盡天河洗甲兵,     Vãn tận Thiên Hà tẩy giáp binh,
廟堂無意事邊征。     Miếu đường vô ý sự biên chinh.
江山有限分南北,     Giang sơn hữu hạn phân nam bắc,
胡越同風各弟兄。     Hồ Việt đồng phong các đệ huynh.
月滿蠻村閒夜柝,     Nguyệt mãn man thôn nhàn dạ thác,
雨餘野燒樂春耕。     Vũ dư dã thiếu lạc xuân canh.
君恩未效涓埃報,     Quân ân vị hiệu quyên ai báo,
一介寧辭萬里行。     Nhất giới ninh từ vạn lý hành.
               阮忠彥                            Nguyễn Trung Ngạn

* Chú Thích :
- Vãn tận Thiên Hà tẩy giáp binh 挽盡天河洗甲兵 : Câu thơ nầy có xuất xứ từ hai câu thơ trong bài Tẩy Binh Mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ như sau :
An đắc tráng sĩ vãn thiên hà; 安得壯士挽天河,
Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng. 淨洗甲兵長不用.
Có nghĩa:
Làm sao có được một tráng sĩ nào đó kéo nước sông Ngân xuống (dịch chữ Thiên hà); Rửa sạch khí giới và áo giáp, mãi mãi không dùng đến nữa.( Ý chỉ có người tài giỏi, dẹp yên chiến tranh để dân chúng được an hưởng thái bình, nhưng mà... thực tế thì đâu có được người như thế !)
Đọc câu nầy làm cho ta lại nhớ đến câu "Tẩy binh vô lộ vãn Thiên hà 洗兵無路挽天河" trong bài Thuật Hoài của danh tướng Đặng Dung cũng ở đời Trần. Nhưng Đặng Dung 鄧容 (1373 – 1414) sanh sau hơn Nguyễn Trung Ngạn 阮忠彥 (1289-1370). Có thể khi viết câu thơ trên Đặng Dung đã đọc qua bài thơ của Nguyễn Trung Ngạn rồi, nên mượn ý để viết lại mà thôi.
- Miếu Đường 廟堂 : Chỉ Triều đình.
- Biên Chinh 邊征 : Chiến chinh vùng biên giới biên ải xa xôi.
- Man Thôn 蠻村 : MAN là Dã Man 野蠻 chưa khai hóa; THÔN xóm. MAN THÔN chỉ bản làng của người dân tộc.
- Dạ Thác 夜柝 : Ban đêm trăng sáng đi hái những nhánh cây khô để làm củi.
- Dã Thiêu 野燒 : Chữ THIÊU là Đốt được đọc thành THIẾU cho đúng luật Bằng Trắc ở trong câu. Nên DÃ THIÊU : là Đốt cỏ khô và rơm rạ ngoài đồng để làm phân, chuẩn bị cho vụ mùa canh tác của mùa xuân tới (XUÂN CANH).
- Quyên Ai 涓埃 : QUYÊN là dòng nước nhỏ; AI là hạt bụi nhỏ, nên QUYÊN AI là nhỏ nhoi, nhỏ nhặt, là Một chút xíu.
- Nhất Giới 一介 : chỉ Cá nhân nhỏ nhoi của mình (lời nói khiêm tốn).

* Nghĩa Bài Thơ :
Đi Sứ Phương Bắc Trú Tại Dịch Quán Khâu Ôn

(Làm sao có thể) kéo hết nước của sông Thiên hà xuống để rửa sạch khí giới và áo giáp (để không còn chiến tranh nữa). Triều đình cũng không có ý gây sự chiến tranh ở các vùng biên cương xa xôi. Núi sông có mốc giới phân định hẵn hoi hai vùng nam bắc, người Hồ kẻ Việt đều cùng chung phong tục tập quán nên đều cùng là anh em cả. Đêm trăng sáng nhàn rỗi nên dân của các bản làng đi bẻ nhánh gom cành làm củi, sau cơn mưa lại đốt cỏ khô rơm rạ để làm phân cho mùa xuân canh tác sắp tới. Ơn vua thì chưa báo đáp được mải mai nào cả, nên bản thân cũng không dám tỏ ý từ nan mà phải đem thân đi sứ ở ngoài muôn dặm như thế nầy.


* Diễn Nôm :
Bắc Sứ Túc Khâu Ôn Dịch

Kéo nước Thiên Hà rửa giáp binh,
Triều đình chẳng có ý chiến chinh.
Núi sông định rõ phân nam bắc,
Hồ Việt đành rành cũng đệ huynh.
Trăng sáng bản làng đi kiếm củi,
Lửa thiêu cỏ rạ đợi xuân canh.
Ơn vua chưa mải mai đền đáp,
Sao dám từ nan vạn lý hành !?
Lục bát :
Kéo sông Ngân, rửa giáp binh,
Triều đình chẳng ý chiến chinh biên thùy.
Núi sông nam bắc phân kỳ,
Anh em Hồ Việt tông chi cùng đồng.
Đêm trăng tìm củi rổi công,
Sau mưa đốt cỏ cho đồng xuân canh,
Ơn vua chưa đáp mong manh,
Dẫu đi muôn dặm không đành từ nan.


Đỗ Chiêu Đức

3. Bài thơ DẠ TỌA :




夜坐 DẠ TỌA
蝶夢家千里, Điệp mộng gia thiên lý,
鵑啼夜五更。 Quyên đề dạ ngũ canh.
悲風號野館, Bi phong hào dã quán,
古木暗荒城。 Cổ mộc ám hoang thành.
飄蕩蓬萍客, Phiêu đãng bồng bình khách,
淹留犬馬情。 Yêm lưu khuyển mã tình.
有懷成獨坐, Hữu hoài thành độc tọa,
茅店又雞聲。 Mao điếm hựu kê thanh.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn

* Chú Thích :
- HÀO 號 : Tiếng gầm của con hổ, nên HÀO có nghĩa là Gào, thét, gầm gừ; ở đây chỉ tiếng gió hú, tiếng gió gào. Chữ nầy còn một âm nữa đọc là HIỆU 號 : là Lời kêu gọi, như Hiệu Triệu 號召. Khi là Danh Từ thì có nghĩa là Tên Hiệu.
- ÁM 暗 : là Mờ, là Tối. Ở đây ÁM là Động từ, có nghĩa là Làm Cho Mờ Tối.
- Phiêu Đãng 飄蕩 : là Trôi nổi dật dờ.
- Bồng Bình Khách 蓬萍客 : BỒNG là cỏ bồng, BÌNH là bèo; một bay theo gió, một trôi theo nước; nên BỒNG BÌNH KHÁCh là Người khách lạc loài trôi nổi vô định.
- Yêm Lưu 淹留 : Từ có xuất xứ từ Thiên LY TAO của SỞ TỪ, có nghĩa : Lưu lạc nơi xứ lạ quê người.
- Khuyển Mã Tình 犬馬情 : Là Cái tình của chó và ngựa, hai con vật rất trung thành với chủ; Ở đây mượn chỉ "Cái lòng trung thành đối với nhà vua".
- Mao Điếm Hựu Kê Thanh 茅店又雞聲 : Câu thơ nầy làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ trong bài Thương Sơn Tảo Hành 商山早行 của Ôn Đình Quân 溫庭筠 là :


雞聲茅店月, Kê thanh mao điếm nguyệt,
人跡板橋霜。 Nhân tích bản kiều sương.


... mà cụ Nguyễn Du đã mượn để gom lại thành một câu thơ rất hay để tả cảnh khi Thúy Kiều trốn khỏi Quan Âm Các là :


(mịt mờ dặm cát đồi cây),
Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giày cầu sương !

* Nghĩa bài Thơ :
Ngồi Trong Đêm
Ngồi một mình trong đêm chỉ mơ về quê hương ngàn dặm trong mộng điệp mà thôi; Tiếng cuốc kêu suốt cả năm canh đêm hè. Gió buồn rít mạnh nơi quán trọ hoang vắng, và các cây cổ thụ che kín mờ cả thành hoang. Thân ta nơi đất khách trôi nổi như cỏ bồng như bèo nước, nhưng luôn luôn giữ lòng trung như khuyển mã đối với quân vương. Vì trong lòng hoài cảm nên mới ngồi suốt trong đêm khi tiếng gà đã eo óc gáy nơi quán cỏ nầy.


* Diễn Nôm :
Ngồi Trong Đêm

Nhớ nhà ngàn dặm qua mơ,
Cuốc kêu ra rả tờ mờ năm canh.
Gió sầu rít mạnh quán tranh,
Thành hoang u ám bóng xanh cây già.
Nổi trôi bèo dạt gió qua,
Gửi thân đất khách tình nhà không khuây.
Một mình đêm vắng ngồi đây,
"Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương"!


Đỗ Chiêu Đức

4. Bài thơ Đăng Dương Châu Thành Lâu :
登楊州城樓 Đăng Dương Châu Thành Lâu

八千餘里客, Bát thiên dư lý khách,
二十四橋秋。 Nhị Thập Tứ Kiều thu.
異國逢佳景, Dị quốc phùng giai cảnh,
忙中強倚樓。 Mang trung cưỡng ỷ lâu !
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn


* Chú Thích :
- Nhị Thập Tứ Kiều 二十四橋 : là Cây cầu nổi tiếng ở Tây Hồ thành phố Dương Châu tỉnh Giang Tô. Cầu gồm một nhịp tròn như cầu vòng, lan can bằng ngọc trắng, dài 24 m, rộng 2,4m, có 24 trụ lan can, 24 bậc thang... mỗi mỗi đều lấy 24 làm tiêu chuẩn, nên mới gọi là "NHỊ THẬP TỨ KIỀU".
- Giai Cảnh 佳景 : Vừa có nghĩa là "Cảnh đẹp" vừa có nghĩa là "Hoàn cảnh tốt".
- Cưỡng 強 : là Gắng gượng, là miễn cưỡng. Khi đọc là CƯỜNG thì có nghĩa là Mạnh.


* Nghĩa bài thơ :
Lên Chơi Thành Lầu Ở Dương Châu

Khách từ ngoài tám ngàn dặm đến đây, gặp lúc Nhị Thập Tứ Kiều đang vào thu. Ở nước lạ mà gặp được cảnh đẹp như thế nầy, nên mặc dù rất bận vẫn ráng cố gắng lên thành tựa lầu mà ngắm phong cảnh đẹp hiếm có nầy.

Đọc bài thơ nầy làm ta nhớ tới bài thất ngôn tứ tuyệt của Đỗ Mục 杜牧 "Ký Dương Châu Hàn Xước Phán Quan 寄揚州韓綽判官" như sau :

青山隱隱水迢迢, Thanh sơn ẩn ẩn thủy điều điều,
秋盡江南草未凋。 Thu tận Giang Nam thảo vị điêu.
二十四橋明月夜, Nhị thập tứ kiều minh nguyệt dạ,
玉人何處教吹簫。 Ngọc nhân hà xứ giáo xuy tiêu !?
Có nghĩa :
Núi xanh thấp thoáng nước mênh mông,
Thu úa Giang Nam hoa vẫn hồng.
Nhị Thập Tứ Kiều trăng sáng qúa,
Nơi nao người ngọc tiếng tiêu lồng!?


Từ xưa đến nay, Tây Hồ ở Dương Châu vừa nổi tiếng là nơi có phong cảnh đẹp, có nhiều người đẹp và lắm thức ăn ngon.

* Diễn Nôm :
Đăng Dương Châu Thành Lâu

Tám ngàn dặm, khách cô liêu,
Đến đây Nhị Thập Tứ Kiều vào thu.
Nước người gặp cảnh thanh u,
Bận sao cũng gắng vựa lầu ngắm xem.

Đỗ Chiêu Đức


5. Bài thơ Động Đình Hồ :


洞庭湖 Động Đình Hồ

雲濤雪浪四漫漫, Vân đào tuyết lãng tứ man man,
砥柱中流屹一山。 Chỉ trụ trung lưu ngật nhất san.
鶴蹟不來松歲老, Hạc tích bất lai tùng tuế lão,
妃魂猶在竹痕斑。 Phi hồn do tại trúc ngân ban.
乾坤卵破洪蒙後, Càn khôn noãn phá hồng mông hậu,
日月萍浮浩渺間。 Nhật nguyệt bình phù hạo diễu gian.
岸芷汀蘭無限興, Ngạn chỉ đinh lan vô hạn hứng,
片心空羡白鷗閒。 Phiến tâm không tiện bạch âu nhàn.
阮忠彥 Nguyễn Trung Ngạn






* Chú Thích :
- Vân Đào Tuyết Lãng 雲濤雪浪 : Những đợt sóng cuồn cuộn như mây, vỗ vào nhau làm cho những hạt nước bắn tung tóe trắng xóa như tuyết rơi.
- Chỉ Trụ Trung Lưu Ngật Nhất San 砥柱中流屹一山 : Một ngọn núi đứng sừng sững vươn lên giữa dòng nước chảy (chỉ ngọn núi Quân Sơn ở giữa Hồ Động Đình).
- Hạc Tích 鶴蹟 : Vết tích của chim hạc; ở đây chỉ dấu chân hạc.
- Phi Hồn 妃魂 : Chỉ hồn phách của hai bà Tương Phi là Nga Hoàng và Nữ Anh. Theo tích vua Thuấn chết ở cuối sông Tương, nơi chảy vào hồ Động Đình. Hai bà phi là Nga Hoàng và Nữ Anh tìm đến khóc chồng suốt chín ngày chín đêm, máu và nước mắt hòa vào nhau bắn tung toé khắp rừng trúc hai bên bờ, làm cho tất cả các cây trúc ở đây đều có lốm đốm các vết màu đỏ, màu nâu, màu tím rất đẹp, gọi là TƯƠNG PHI TRÚC 湘妃竹 như những hình ảnh kèm theo sau đây.

- Ngân Ban 痕斑 : NGÂN là Vết sẹo (thẹo), BAN là cái Vệt, cái Đốm. nên NGÂN BAN là Các vết các vệt lốm đốm (trên cái gì đó...)
- Noãn Phá 卵破 : là Trứng nứt ra.
- Hồng Mông 洪蒙 : là Thuở trời đất còn mờ mịt khi mới được tạo lập ra.
- Hạo Diễu 浩渺 : là mênh mông bát ngát, diệu vợi bao la.
- Tiện 羡 : là Tiện Mộ 羨慕, là Hâm mộ, ái mộ, ngưỡng mộ.

* Nghĩa bài thơ :
Hồ ĐỘNG ĐÌNH
Những đợt sóng cuồn cuộn như mây, vỗ vào nhau làm cho những hạt nước bắn tung tóe trắng xóa như tuyết rơi khắp bốn phương trời mênh mông mờ mịt. Ngọn núi Quân Sơn sừng sững như dựng đứng giữa dòng chảy của lòng hồ. Những vết chân hạc không đến được nơi nầy, chỉ trơ trọi có mấy cây thông già; Hồn của hai bà Tương Phi như còn phảng phất đâu đây còn in ngấn lệ trên thân cây tre trúc. Trời nước lẫn lộn mịt mờ như mới từ trong trứng vỡ ra sau buổi hồng hoang, và mặt trời mặt trăng như bèo dạt hoa trôi trong khoảng không mênh mông bát ngát nầy. Cỏ chỉ cỏ lan hai bên bờ tạo nên niềm cảm hứng vô cùng, một tấm lòng chỉ ước ao ngưỡng mộ sao cho được nhàn tản như những con chim âu trắng đang tự do bay lượn trên hồ nước !

* Diễn Nôm :
ĐỘNG ĐÌNH HỒ

Như mây như tuyết sóng mênh mông,
Sừng sững Quân Sơn đứng giữa dòng.
Dấu hạc bặc tăm thông lão cổi,
Hồn Phi còn đó trúc nâu hồng.
Đất trời tựa nhập sau hoang hóa
Nhật nguyệt như bèo giữa cỏi không.
Cỏ chỉ cỏ lan thêm hứng thú,
Ước như âu trắng lượn thong dong.
Lục bát :
Sóng như mây tuyết chập chùng,
Quân Sơn sừng sững giữa dòng nước trôi.
Bặc tăm dấu hạc thông còi,
Hồn Tương Phi đó rạng ngời dấu tre.
Càn khôn hỗn độn chưa chia,
Trời trăng mây nước bèo kia bềnh bồng.
Cỏ lan cỏ chỉ hứng lòng,
Ước như âu trắng thong dong bên trời !


Mời đọc tiếp Thơ NGUYỄN TRUNG NGẠN (phần 2)


杜紹德
Đỗ Chiêu Đức

Xem Thêm :Họa Thơ Nguyễn Trãi ( 5 Bài Thơ Làm Trước Khi Thành Danh ) - Mai Thắng



































































1 nhận xét:

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...