Thứ Năm, 3 tháng 6, 2021

CHUYẾN CÔNG DU VĨ ĐẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN

 

Triều đình nhà Nguyễn đã gởi một phái đoàn ngoại giao đầu tiên sang phương Tây là vào năm 1863, với sứ bộ Phan Thanh Giản đi Pháp và Tây Ban Nha. Nhiệm vụ quan trọng của sứ bộ là dâng quốc thư của vua Tự Đức cho hoàng đế Napoléon III của Pháp xin bãi bỏ hoà ước năm Nhâm Tuất (1862) có nhiều bất lợi cho nước Đại Nam và xin chuộc lại 3 tỉnh miền Đông đã bị Pháp chiếm là Biên Hoà, Gia Định và Định Tường, chuẩn bị thương nghị một hoà ước mới công bằng hơn. Phái đoàn cũng có gặp nữ hoàng Isabella II của Tây Ban Nha để bàn về vấn đề ngoại giao của Tây Ban Nha với Đại Nam.
Sứ bộ do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, Phạm Phú Thứ làm Phó sứ, và Nguỵ Khắc Đản làm Bồi sứ cùng với nhiều nhân viên và binh lính phục vụ khác. Ngoài ra còn hai quan chức cao cấp người Pháp đi theo hướng dẫn là Aubaret và Rieunier. Chi tiết của chuyến đi này được Phạm Phú Thứ ghi chép tường tận bằng Hán văn trong Tây hành nhật ký (bản dịch tiếng Việt của Tô Nam và Văn Vinh). Sứ đoàn rời cảng Bến Nghé ngày 4-7-1863 trên quân hạm Europeen của Pháp, đi theo lộ trình qua Singapore, Malaysia, Ấn Độ dương, biển Ả Rập đến Aden, vào Biển Đỏ đến thị trấn Suez, tại đây cần phải trương quốc kỳ làm hiệu để trên bờ bắn đại bác chào mừng, sứ đoàn có mang theo quốc kỳ nhưng Rieunier cho rằng cái này dễ nhầm lẫn với cờ của nước khác, do đó sứ đoàn dùng tơ đỏ thêu thêm 4 chữ “Đại Nam khâm sứ” vào 2 mặt của quốc kỳ để phân biệt. Nên nhớ rằng năm 1863 chưa có kênh đào Suez, chỉ có cảng Suez nên phái đoàn phải lên bờ tại Ai Cập rồi dùng tàu đi tiếp qua Địa Trung Hải. Tại đây, sứ đoàn lên bộ đi xe lửa qua Cairo đến hải cảng Alexandrie của Ai Cập trên biển Địa Trung Hải, rồi xuống tàu Labrador, đi qua đảo Crète của Hy Lạp, qua đảo Sicile của Italy, và qua đảo Corse của Pháp, đến quân cảng Toulon rồi đến Marseille. Tại đó, sứ đoàn lên bộ đi xe lửa đến Paris.
Khi mới đặt chân đến Pháp, phái đoàn lưu trú tại một khách sạn ở Marseille, nhật ký đi tây của Phạm Phú Thứ mô tả:
Quán bảy tầng, gồm có trăm phòng, bàn ghế, màn trướng phần lớn đều dùng gấm, đoạn để trang trí. Ban đêm thắp đèn khí sáng hơn đèn dầu hoặc đèn nến (có nhà máy khí, lấy than đốt thành khí rồi chứa lại để bán khắp nơi); cây đèn ở các nhà đều trống ở giữa và thông ngầm với ống sắt; ống sắt dẫn khí phân phối cho các nơi để thắp đèn; ngọn đèn nhỏ, nhưng ánh sáng trắng như ngọc)
Ngày 18/9/1863 phái bộ đi thăm viên quan Đại Học sĩ, đi thăm rừng Boulogne, hồ dẫn nước sông Seine, nơi thắng cảnh ở ngoại thành Pari. Đến tối, phái bộ được đi dạo phố, đèn đường sáng như ban ngày”.
Ngày mồng sáu… Đêm ấy, giờ Tuất, người ta lại mời ra đường xem đèn: hai bên vệ đường, trồng cách khoảng liên tiếp những cột sắt (cột cách nhau ba hoặc bốn tượng cao năm, sáu thước), trên cột mắc đèn pha lê thắp bằng khí đốt. Ở các cửa hàng buôn bán, mỗi gian đều có đèn treo thắp sáng; phía trong cửa kính, bày la liệt các thứ hàng. Có nơi ở ngoài sân, người ta làm những ống sắt cong và đặt lên trên giá gỗ. Người ta cũng bắt ống pha lê để làm những biển hiệu ngoài cổng, có khi người ta lại đặt ngang trên cổng những ống pha lê để hơi bốc cháy. Trong ngoài ánh sáng chan hòa, đường phố sáng như ban ngày…”
Trong thời gian ở Pháp, phái đoàn cũng được đi xem sở sản xuất khí đốt:
Ở chỗ chứa khí, có đặt ống, ống cũng có máy để tiện mở và khóa hơi, chạy tỏa ra khắp các nhà và đường phố ở thành thị. Ống này ống nọ dẫn khí đến ngòi đốt; lấy lửa châm đầu ngòi, khí bắt lửa cháy lên, sáng tỏ bội thường (chỗ ngòi đốt cũng có máy, lúc thắp, vặn máy thì khí phun ra và cháy; lúc tắt, cũng vặn máy, khí hút vào và tắt). Ngọn đèn để trong lồng kính và có tán. Ngoài đường phố, trong buồng, trên tường, trên giàn, thường đèn đều thắp bằng khí. Người mua khí tính theo thời khắc, giá so với dầu hoặc sáp thì khá rẻ…”
Trên đường đi, sứ đoàn được tiếp đón rất ân cần, tử tế, chăm sóc rất chu đáo, được mời tham quan nhiều nơi, nhiều cơ sở sản xuất lớn, khiến tầm nhìn được mở rộng, tận mắt thấy khoa học kỹ thuật tiến bộ của phương Tây. Tại Paris, sứ đoàn có gặp một Việt kiều có lẽ là người Việt đầu tiên ở phương Tây, đó là bà Nguyễn thị Liên, vợ của Vannie, ông này từng làm quan dưới triều Gia Long và Minh Mạng. Bà đã theo chồng về Pháp từ năm 1826 và ở hẳn bên Pháp, tại Lorient. Bà nghe có sứ bộ Đại Nam sang, nên không quản xa xôi cùng con gái là Marie đến yết kiến sứ đoàn và ở lại Paris mấy tháng trời cho đến lúc sứ đoàn về nước thì đến tiễn. Chánh sứ và hai phó sứ cũng được mời tham dự một phiên họp Quốc hội của triều đình Pháp do chính hoàng đế Napoléon III chủ trì. Chánh sứ Phan Thanh Giản đích thân trao quốc thư cho Napoléon III tại triều đình Pháp ngày 05.11.1863.
Sứ đoàn rời Paris ngày 8-11-1863, đi xe lửa đến cảng Marseille, từ đây đi thuyền sang cảng Alicante của Tây Ban Nha rồi đi xe lửa đến thủ đô Madrid, trao quốc thư cho nữ hoàng Isabella II tại triều đình của Tây Ban Nha ngày 18-11-1863. Về phiên dịch, sứ đoàn có 3 thông ngôn là Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Trường và Nguyễn Văn San, và các thư ký Tôn Thọ Tường, Phan Quang Hiệu (Nguyễn Văn Trường qua đời trước khi tàu đến cảng Suez). Tuy nhiên các công tác phiên dịch quan trọng nhất đều do Aubaret chủ trì.
Ngày 20-11-1863, sứ đoàn rời thủ đô Tây Ban Nha, lên đường về nước, khởi đầu đi xe lửa đến cảng Valencia thuộc Địa Trung Hải, tại đây xuống tàu trở về nước, men theo bờ biển, đi ngang cảng Barcelona. Khi tàu đi ngang qua Italy có ghé lại Rome, tại đây Trương Vĩnh Ký và một vài người theo đạo Thiên Chúa trong đoàn có đến yết kiến Giáo hoàng Pius IXĩ,. Ngày 18-3-1864 tàu về đến cảng Bến Nghé. Như vậy chuyến đi của sứ bộ Phan Thanh Giản, đi và về mất hơn 8 tháng.
Khi sứ đoàn về nước liền háo hức kể cho vua Tự Đức và các vị quan khác nghe về chuyện mình tận mắt chứng kiến nền văn minh các nước phương Tây tiến bộ cỡ nào và yêu cầu triều đình nên mở cửa quan hệ ngoại giao với họ nhưng thật tiếc là triều đình vẫn u mê tăm tối cho rằng đoàn sứ giả bị "lũ Bạch Qủy" phương Tây mê hoặc và vẫn kính nể đế chế Trung Hoa vĩ đại. Cũng may là vua Tự Đức không bắt hết những người trong đoàn sứ giả và xử tội họ khi quân (dối vua).
Hình chụp đoàn sứ giả Đại Nam tại Paris, Pháp vào ngày 21 tháng 9 năm 1863. Họ chính là những người Việt Nam đầu tiên được chụp hình chân dung kể từ khi máy chụp hình được phát minh ra lần đầu tiên trên thế giới vào năm 1839.

VŨ HOÀNG (Miền Nam VN trước 1975)


Hoa Huỳnh chuyển 

1 nhận xét:

Thành Ngữ Điển Tích 114 : TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH.

  Thành Ngữ Điển Tích 114 :                                 TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH. Ao Chuôm  TRÌ ĐƯỜNG 池塘 là Ao chuôm, ao đầm, ao hồ...