A- TUỔI THÂN VÀ CON KHỈ:
Năm Thân là năm được biểu hiện bởi con Khỉ cũng
gọi là Khởi, cho nên trong bàng dân thiên hạ cũng thường nhắc nhở luôn
trong sinh hoạt xã hội hằng ngày, từ đó mới có những từ ngữ liên quan đến Khỉ, sưu tầm xin trích dẫn như sau:
Thân là con Khỉ đứng hạng thứ 9
của 12 con vật trong Thập Nhị Địa Chi (Tý,
Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Loài Khỉ có đặc tính
giống loài người, thuộc loài có vú, sanh con, có 4 chân như: Trâu, Bò, Ngựa,
Dê, Chó, Mèo v.v, nhưng hai chân trước có thể biến thành tay, thường ở trong
rừng, ưa nhảy nhót, đu chuyền từ cây này sang cây khác, sống từng đoàn, thông
minh hơn các thú vật khác, cho nên thường bắt chước loài người, vì thế được con
người huấn luyện để biểu diễn trong những đoàn xiệc cùng
với Voi, Sư Tử, Chó mà chúng ta thường thấy, nhứt là trong
phim “Tarzan”. Các giòng họ loài Khỉ, xin trích dẫn đơn cử như sau: Đười Ươi,
Vượn, Vượn Trắng (Bạch Viên), Di Hầu, Mộc Hầu, v..v..Người ta thường gọi ai đó
đang làm trò Khỉ, ý muốn ám chỉ hành
động không tốt, chỉ múa máy chứ không phải thực tài.
Khỉ là tên gọi chỉ về những loài động vật thuộc lớp thú, bộ linh trưởng. Khỉ có
ba nhóm lớn, là khỉ Tân Thế giới, khỉ Cựu Thế giới, khỉ không đuôi. Có khoảng
264 loài khỉ đã bị tuyệt chủng. Một số loài giống khỉ không đuôi, như tinh tinh hay gibbon
thường được gọi là khỉ trong ngữ cảnh bình dân, tuy rằng các nhà sinh học không
xếp chúng vào các loài khỉ. Tuy nhiên, không có một đặc điểm nào là duy nhất mà
tất cả các loài khỉ đều có mà các loài vật khác không có.
Trong các nền cổ
văn hóa và văn hóa hiện đại, hình ảnh con khỉ biểu tượng như là sự nghịch ngợm,
tinh nghịch, láu lĩnh, nhanh nhẹn nhưng cũng có những con khỉ đã trở thành biểu
tượng thần thánh như Tôn Ngộ Không, Hanuman….
Khỉ đột: là loài Khỉ lớn con xem như
chúa tể các loài Khỉ.
Khỉ lọ nồi: là loài Khỉ có đầu màu
đen.
Khỉ bạc má: là loài Khỉ, có gò má màu
trắng...v.v.
Ngoài ra,
chúng ta còn thấy những từ ngữ khác như sau: Khỉ Mốc, Khỉ Khô, Cầu Khỉ, Sọ Khỉ
.v.v…
Hay những cụm
chữ ngụ ý không tốt như:
- Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. (ý
nghĩa là phản phúc)
- Rung cây nhát Khỉ. (phô trương nhưng chẳng ai sợ)
- Nhăn nhó như Khỉ ăn Gừng.....
Từ ngữ về con
khỉ chủ yếu xuất hiện trong văn hóa của các dân tộc Á Châu. Một số thành ngữ,
tục ngữ như:
-
Khỉ ho cò gáy: Chỉ chốn hoang vu
-
Giết gà dọa khỉ.
-
Làm trò khỉ: Chế giễu những người hay pha trò, bắt chước, làm trò hề.
-
Khỉ gió, khỉ khô, khỉ mốc: Những câu rủa, câu mắng.
-
Đồ khỉ hay đồ khỉ gió: Ám chỉ người không đứng đắn, nghiêm túc, hay
nghịch ngợm.
“Trời sinh con khỉ ở lùm,
Chuyền qua chuyền lại rớt ùm xuống sông.”
Hoặc:
Chỉ thân phận khổ cực, đảm đang nhưng đơn chiếc của người phụ nữ như:
“Khỉ bồng con lên non kiếm trái,
Cảm thương nàng phận gái mồ côi”.
Hay: Tánh nết của người mang tuổi con khỉ:
Tuổi thân con khỉ khôn ngoan,
Hành động nhanh nhẹn không than phận mình.
Hành động nhanh nhẹn không than phận mình.
Giờ Thân: là giờ bắt đầu từ 15 giờ đến đúng 17 giờ chiều mỗi ngày.
Tháng Thân: là tháng Bảy của năm Âm lịch.
Nói đến năm Thân, là phải nhớ
đến năm lịch sử tức là năm Giáp Thân (1884), có ảnh hưởng lịch sử quê hương
mình. Bởi vì, năm này Pháp thấy nước ta yếu nên lại làm áp lực buộc ký kết thêm
hòa ước thứ tư do Ông Patenôtre đại diện Pháp Hoàng ký tên, nên gọi là hòa ước
Patenôtre tức Hòa Ước Giáp Thân 1884. Đây là ý đồ của Pháp chiếm lấy hết nước
ta, để đặt nền đô hộ tại Việt-Nam gần 100 năm (một trăm năm đô hộ giặc Tây).
Nhân đây,
nói về Tết năm con Khỉ cầm tinh, xin trích dẫn một trong những món ăn liên quan
đến con Khỉ, trong dịp Bà Từ Hi Thái Hậu tức Tây Thi Thái Hậu, đời nhà Thanh
Trung Hoa, khoản đãi phái đoàn sứ thần thuộc các quốc gia Tây
Phương, nhân dịp mừng Xuân Canh Tý 1874. Tiệc được chuẩn bị 11 tháng 6 ngày
trước, có 1750 người phục vụ, tốn kém 98 triệu hoa viên thời bấy giờ tương
đương 374 ngàn lượng vàng ròng, gồm 400 thực khách và kéo dài suốt 7 ngày đêm
bắt đầu giờ giao thừa Tết Nguyên Đán năm Canh Tý.
Đó
là món Não Hầu tức Óc Khỉ như sau:
Vùng
Thiên Hòa Sơn thuộc tỉnh Sơn Đông có một rừng cây Lê, gọi là Ngọc Căn Lê, trái
Lê trị được các bịnh nhiệt uất, can thận và ho kinh niên. Rừng Lê có rất nhiều
Khỉ, chúng nó ăn hết cả trái. Nhờ ăn Ngọc Căn Lê nên thịt Khỉ nơi đây rất ngon
thơm, lại chữa được bịnh loạn óc, tê liệt và bán thân bất toại. Về dược tính óc
khỉ quí hơn thịt gấp bội. Dân chúng trong vùng tìm đủ cách bảo vệ rừng Lê,
nhưng không có kết quả, bởi giống Khỉ nơi đây có ba xoáy, tinh khôn, né
tránh thợ săn và bẫy rập một cách tài tình.
Tương
truyền, Tây Thi Thái Hậu xuống chiếu phải bắt cho đưọc 200 con Khỉ tơ, chưa
thay lông lần nào, mỗi con được trọng thưởng 10 lượng vàng ròng. Con số này quá
nhiều, thợ săn không thể đáp ứng đủ số, về sau Tây Thi giảm bớt xuống chỉ con
80 con, để đáp ứng 5 thực khách dùng một con. Khỉ mang về được nuôi bằng thức
ăn tinh khiết, bổ dưỡng, ngoài ra còn tắm gội sạch sẽ. Mặt khác, lại cho đóng
80 cái hộp tròn giống như cái trống nhỏ mở ra khép vào được, một mặt trống có
khoét lỗ tròn vừa đủ diện tích cho cái đầu con Khỉ ló lên kèm theo một cái gông
làm cho con Khỉ không thể cục cựa được. Trước khi bắt đầu món ăn nầy, bầy
Khỉ được tắm rửa lần chót, xịt nưóc hoa thơm ngát vá cho uống một loại
thuốc để tất cả năng lực, tinh túy con Khỉ tập trung lên não bộ, óc Khỉ vì lẽ
ấy sẽ gia tăng chất bổ bội phần. Muốn cho các quan khách Tây Phương bớt thấy sự
dã man, ăn uống được mạnh miệng đồng thời làm cho món ăn mang ít nhiều ý nghĩa
lịch sử, Thanh triều còn cho các con Khỉ vận triều phục, đội mão, vẽ mặt, mang
râu giống như một đại quan của triều đình, trên cổ đeo một tấm bảng nhỏ ghi rõ
tên họ, tuổi tác cùng quan chức thuở sanh tiền. Những con Khỉ đó tượng trưng
cho những nịnh thần, gian tặc ... khả ố nhứt, gian ác nhứt, bị dân chúng oán
ghét tận xương tủy như: Tần Cối, Bí Trọng, Vưu Hồn, Bàng Hồng, Trương Bang
Xương, Mao Diên Thọ ...phải chịu chết để đền tội với đất nước.
Khi tiếng
khánh ngọc từ tay Tây Thi Thái Hậu trổi lên để báo hiệu đến món não hầu, thì
nội thị dọn ra mỗi bàn một cái lồng chứa Khỉ cho 5 thực khách. Kế tiếp tên nội
thị một tay gỡ mão, một tay dùng búa bằng ngà nhỏ giáng xuống đầu Khỉ, động tác
này đã được tập luyện thuần thục từ trước để chỉ cần một búa duy nhứt là đủ đưa
con Khỉ sang bên kia thế giới. Cùng lúc ấy nhạc đệm trổi lên và tên nội thị sẽ
ngâm nga một câu theo tiếng nhạc, đại ý như Mao Diên Thọ đã thụ hình hay Tần
Cối đã đền xong tội phản thần. Đoạn tên nội thị lập tức dùng một tấm lụa bạch
đậy kín toàn bộ cái đầu con Khỉ, chỉ chừa một lỗ thật nhỏ vưà đủ đưa cái
muỗng bạc vào múc khối óc Khỉ. Não Hầu được xối lên bằng nước sâm nóng hổi cho
tái đi, bớt đỏ. Lúc thực khách vừa múc óc Khỉ ra ngoài, nội thị dùng nĩa bạc
gạt bỏ phần da đầu và nhũng mảnh sọ bể để khách dễ dàng thưỡng thức nhiều ít
tùy thích. (tài liệu này do Mọt Sách sưu tầm và tường thuật).
Việc bày trò đãi
ăn óc khỉ một cách độc ác như trên, sau nầy có xuất hiện tại các nhà hàng sang
trọng trong vùng Chợ Lớn miền Nam VN. Bọn nhà giàu người Tàu thường ăn óc khỉ
để tăng sung khí óc não. Hình ảnh hết sức ghê rợn, độc ác và phi nhân tính.
Hơn nữa, vì
loài Khỉ là loài chống lại được các bịnh thông thường, cho nên người ta thường
nuôi nó ở trước nhà để cho con cháu ít bịnh hoặc nuôi chung với chuồng hay tàu
Ngựa để tránh bịnh cho Ngựa.
Các chuyện
huyền thoại về loài Khỉ rất nhiều như: Tề Thiên Đại Thánh đi thỉnh kinh Tam
Tạng cùng với thầy Huyền Trang và Trư Bát Giới - Bạch Viên Tôn
Các (Bạch Viên tức con Vượn Trắng) - Đười Ươi Giữ ngục
.v.v. trong dân gian đã kể quá nhiều, ai cũng biết.
Khi
bàn đến tuổi Khỉ thuộc năm Giáp Thân, xin trích dẫn nhắc lại sự liên quan như
sau:
Giáp Thân và
Giáp Dần có cùng mạng Thủy, cho nên muốn tính năm sanh thuộc mạng
gì trong Ngũ Hành, chúng ta phải nhớ câu: Hán (Thủy) Địa (Thổ) Siêu
(Hỏa) Sài (Mộc) Thấp (Thủy). Tuổi Thân được Tam Hạp là:
Thân, Tý và Thìn. Bởi vì, theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ
Hành thì: Thân có hành Kim, Tý có hành Thủy và Thìn có hành Thổ, cho nên chúng
ta phân tách từng cặp tuổi chỉ thấy tuổi Thân được tương sanh với tuổi Tý và
tuổi Thìn.
Nói đến loài
khỉ là phải nói đến tình thương của khỉ cha mẹ với khỉ con. Câu chuyện TÌNH MẸ
KHỈ đã in dấu ấn trong thời non trẻ của nhiều thế hệ. Có câu chuyện như sau:
Một người thợ săn vào rừng. Anh thấy trên cây cao, một đàn khỉ đông cở mấy chục
con đang chuyền cành nhảy nhót. Anh giơ súng nhắm bắn một phát ngay con khỉ lớn
đang bồng con, tính bắt được con khỉ con đem về nuôi, dạy nó làm theo ý mình
cho dễ thuần phục. Khỉ mẹ bị trúng đạn ngay ngực sắp chết, nó la lên một tiếng
và nhìn về phía con khỉ đực. Khỉ đực chuyền cành nhảy nhanh qua. Khỉ mẹ tay giữ
cành cây cho khỏi té, tay kia bế khỉ con đưa cho khỉ cha. Sau khi khỉ cha đón
được con, ôm vào lòng, khỉ mẹ xuội thân rã rời, buông tay rơi xuống đất. Khỉ
cha nhìn theo rơi lệ nhe răng hét to, giận dữ ngó về người thợ săn.
Phần người thợ săn, anh theo dõi từ đầu
đến cuối cảnh tượng đau lòng và đầy cảm xúc về tình thương con của loài khỉ.
Nhìn xác khỉ mẹ đang nằm dưới đất và cảnh khỉ cha ôm con trong lúc hàng chục
con khác đang thẩn thờ đứng nhìn bất động, anh thợ săn cũng đứng lặng như tim
đang ngừng đập. Anh cảm xúc quăng súng, ngồi bẹp xuống đất.
Từ ngày ấy,
anh thợ săn đã cất súng bỏ hẳn nghề săn thú, nên Hồ
Nguyễn đã có bài thơ rằng:
TÌNH
MẸ KHỈ VÔ BIÊN
Tình
khỉ thương con nói mấy vừa,
Nuôi
con chăm sóc sớm chiều trưa.
Chuyền cành ôm trẻ bao gian khổ,
Tay
ẩm bồng che trốn nắng mưa.
Một tiếng nổ
vang tim trúng đạn,
Hai
tay bồng bế chuyển con đưa.
Thợ săn choáng mắt tim đau nhói,
Quăng
súng nghề săn nguyện bỏ
chừa.
HỒ NGUYỄN (20-6-15)
B- TÁNH NẾT CỦA NGƯỜI
MANG TUỔI THÂN:
Người mang tuổi
Thân đa số thông minh lanh lợi, tài giỏi hơn người. Họ hoạt bác hiếu động, phản
ứng nhanh, biết nắm bắt thời cơ, ý chí kiên định, niềm tin vững vàng, ý thức
cạnh tranh mạnh mẽ. Họ thông minh và tài giỏi, tính toán khôn khéo, đầu óc tỉnh
táo. Họ đa tài đa nghệ, cảm nhận tốt, ăn nói hài ước, giỏi ứng phó, có sách
lược rõ ràng, làm việc chín chắn. Người tuổi Thân giỏi đoán lòng người,
giao tiếp xã hội tốt, có thể nhanh chóng tạo dựng quan hệ với người khác, song
không thích bị người khác khống chế. Họ thích tìm kiếm sự vật mới mẽ, có tài
sáng tạo, biện luận giỏi, mong muốn thể hiện mình mạnh mẽ, sự nghiệp phát triển
thuận lợi.
Tánh tình lanh lợi, hoạt bác, cởi mở là các
đặc tính của người tuổi Thân. Bất kỳ trường hợp nào, hoàn cảnh nào, hễ có mặt
họ thì không khí sẽ trở nên náo nhiệt. Người mang tuổi thân là người thông minh
tài trí, khả năng giải quyết vấn đề mạnh mẽ, giỏi giao tiếp. Chính do có các
đặc tính này mà họ thu hút được những người xung quanh. Nhưng đôi lúc họ làm
người khác có ấn tượng xấu bởi tính thẳng thắn và thiếu kỷ luật của họ. Đừng
quá lạm dụng ưu điểm của bản thân mà làm giảm sự tin tưởng của người khác.
Người tuổi
Thân rất chú trọng không khí hòa thuận trong gia đình. Họ đối xử với mọi người
rất hòa nhã, thân thiện. Họ coi trọng tình cảm máu mủ, yêu quý và tôn trọng
người già, rất hiếu thảo với cha mẹ. Họ có thể hy sinh tất cả vì các con của
mình mà không đòi hỏi bất kỳ một sự đền đáp nào.
Người tuổi
Thân thường rất hoạt bác, năng động, luôn căng tràn sức sống, hiếu kỳ với những
sự việc xung quanh mình, dũng cảm đón nhận thử thách, mạo hiểm, thích những thể
nghiệm mới lạ. Họ có rất nhiều phát hiện mới trong suốt cuộc đời của mình. Họ
cũng không thích bị quản thúc, bó buộc, muốn có cuộc sống hoàn toàn tự do, độc
lập.
Họ cũng là những người vô cùng hiếu khách, luôn chân thành,
thẳng thắn và bình đẳng với bạn bè, thích đấu tranh với sự bất công và hay giúp
đỡ người khác. Tuy nhiên, họ không giỏi trong việc xử lý mối quan hệ mang tính
chất trên dưới. Chính điều này đã tạo nên một số bất lợi nhất định trong sự
nghiệp của họ.
C- NHỮNG NHÂN VẬT LỊCH SỬ SINH NĂM
THÂN:
Trong lịch sử Việt Nam, rất nhiều danh
nhân sinh ra trong năm Khỉ (năm Thân), nhưng nổi bậc nhất là các vị sau đây:
1- Nguyễn Trãi (1380-1442): Hiệu
là Ức Trai là đại thần nhà Hậu Lê, một nhà văn chữ Nôm. Ông là một nhà chính
trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà
thơ mang tầm cỡ kiệt xuất, vĩ đại. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên Hiêp Quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hóa
thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm, năm sinh của ông.
Nguyễn
Trãi gốc làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sinh ra ở Thăng Long,
sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và có công lớn trong
việc phò tá Lê Lợi đánh đuổi giặc Tàu ngoại xâm và lập lên triều đại nhà Hậu
Lê.
Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi
bị tru di tam tộc trong vụ án oan khiên Lệ Chi Viên nổi tiếng trong lịch sử.
Lúc đó Nguyễn Trãi 62 tuổi.
Hơn 20 năm
sau, vào tháng 7 năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn
Trãi, truy tặng Nguyễn Trãi tước Tán Trù Bá. Hiện nay, ở Côn Sơn (Chí Linh,
Hải Dương) có khu lưu niệm Nguyễn Trãi và gia tộc của ông. Các thế hệ giàu
lòng ngưỡng mộ đối với tổ tiên, từ khắp mọi miền của đất nước, đã không ngớt
kéo về Côn Sơn để tưởng nhớ Nguyễn Trãi - người con quang vinh của lịch sử nước
nhà.
2. Lương Thế Vinh (1460–1497): Là Trạng Nguyên, làm quan triều Lê Thánh Tông.
Danh sĩ Lương Thế Vinh tự Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên, người
quê xã Cao Hương, huyện Thiên Bản, tỉnh Nam Định nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định.
Năm Quý Mùi
1463, ông đỗ Trạng Nguyên khi chỉ mới 23 tuổi. Ông làm quan đến chức Thừa chỉ ở
Viện Hàn Lâm, có chân trong Tao đàn Nhị thập bát tú thời ấy. Bình sinh hiếu
học, đọc rộng các sách, ông có soạn nhiều sách về đạo Phật và quyển Toán pháp
đại thành. Các sĩ phu và nhân dân cảm phục tài đức ông, tục gọi ông là Trạng
Lường (biểu dương ông về khoa toán pháp).
Lương Thế Vinh
là một ông quan tài giỏi, thông thạo văn chương, giỏi giang âm nhạc, tinh tường
toán pháp. Ông còn nổi tiếng về lòng mến dân và đức tính thẳng thắn, trung
thực. Ngay đối với vua, ông cũng hay châm biếm khôi hài, không chịu câu thúc. Ông thường mượn việc để răn dạy từ vua đến
quan.
Khi ông mất,
được phong làm Phúc thần, nơi đình Cao Hương còn có bức vẽ chân dung ông.
3- Đào Duy Từ (1572-1639): Nhà chính trị quân sự
lỗi lạc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, người thầy, bậc khai quốc công thần số
một của chín đời chúa Nguyễn và 13 đời vua nhà Nguyễn.
Đào Duy Từ làm
quan với chúa Nguyễn Phúc Nguyên từ năm 1627 đến năm 1634, trong vòng tám năm
(từ năm ông 54 tuổi đến năm 62 tuổi) ông đã kịp làm được năm việc lớn:
(1) Giữ vững cơ nghiệp của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chặn
được quân Trịnh ở Đàng Ngoài;
(2) Mở đất phương Nam làm cho Nam Việt thời ấy trở nên phồn
thịnh, nước lớn lên, người nhiều ra
(3) Xây dựng được một định chế chính quyền rất được lòng
dân, đặt nền móng vững chắc cho triều Nguyễn lưu truyền chín chúa, mười ba đời
vua.
(4) Tác phẩm "Hổ trướng khu cơ"; “nhã nhạc cung
đình Huế”, “vũ khúc tuồng Sơn Hậu” là những kiệt tác và di sản văn hóa vô giá
cùng với giai thoại, ca dao, thơ văn truyền đời trong tâm thức dân tộc
(5) Đào Duy Từ là người thầy đức độ, tài năng, bậc kỳ tài
muôn thuở, người khai sinh một dòng họ lớn với nhiều hiền tài và di sản.
4- Nguyễn Tri Phương (1800-1873): Một
đại danh thần Việt Nam thời nhà Nguyễn.
Nguyễn Tri Phương tên cũ là Nguyễn Văn Chương, tự Hàm Trinh,
hiệu là Đồng Xuyên, sinh ngày 21 tháng 7 năm Canh Thân 1800, quê làng Đường
Long (Chí Long), xã Chánh Lộc, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.
Ông xuất thân
trong một gia đình làm ruộng và nghề thợ mộc. Nhà nghèo lại không xuất thân từ
khoa bảng nhưng nhờ ý chí tự lập ông đã làm nên công nghiệp lớn.
Năm Quý Mùi (1823), ra làm quan cho triều Nguyễn. Ông từng
giữ các vị trí quan trọng trong triều đình và được chép công trạng vào bia đá ở
Võ miếu (Huế).
Ông là vị Tổng
chỉ huy quân đội triều đình Nguyễn chống lại quân Pháp xâm lược lần lượt ở các
mặt trận Đà Nẵng (1858), Gia Định (1861) và Hà Nội (1873).
Trong trận
chiến bảo vệ thành Hà Nội tháng 11 năm 1873, Nguyễn Tri Phương bị trọng thương.
Ông được lính Pháp cứu chữa, nhưng ông khảng khái từ chối và nói rằng:
"Bây giờ nếu ta chỉ gắng lây lất mà sống, sao bằng thung dung chết về việc
nghĩa"Sau đó, ông tuyệt thực gần một tháng và mất vào ngày 20 tháng 12 năm
1873 (1 tháng 11 Âm lịch), thọ 73 tuổi. Thi hài ông và Nguyễn Lâm được đưa về
an táng tại quê nhà. Đích thân vua Tự Đức soạn bài văn tế cho ba vị công thần
(Nguyễn Duy, Nguyễn Lâm, Nguyễn Tri Phương) và cho lập đền thờ Nguyễn Tri
Phương tại quê nhà.
5- Nguyễn Văn Tường (1824-1886): Phụ chính Đại thần khi Tự Đức mất. Bị Pháp đày đi
Tahiti. Nguyễn Văn Tường là Đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. Ông xuất thân từ
một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng
Trị. Năm 1850, ông đậu cử nhân, được nhận chức huấn đạo (phụ trách việc dạy và
học) tại huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1853, huyện Thành Hóa, thuộc tỉnh
Quảng Trị được thành lập, ông được bổ làm tri huyện ở đó cho đến 9 năm sau. Tại
đây, ông đã xây dựng được một căn cứ địa tốt cho Huế. Ông lại chứng tỏ là một
người rất có tâm và tài trong việc đoàn kết người Thượng với người Kinh.
Ngày 23 tháng
5 âm lịch, Ất Dậu (ngày 4 tháng 7, bước sang ngày 5 tháng 7 năm 1885) ông cùng
Tôn Thất Thuyết chỉ huy cuộc tấn công một cách bất ngờ vào Sứ quán Pháp bên kia
sông Hương và doanh trại Pháp tại Mang Cá (Huế), nhưng thất bại. Sau một thời
gian ngắn ông bị Pháp bắt và đưa đi lưu đày. Ngày 30 tháng 7 năm 1886, tại
Papeete, một làng trên quần đảo thuộc địa Tahiti của Pháp, Nguyễn Văn Tường mất
vì bệnh ung thư cổ họng, thọ 62 tuổi.
6- Mai Xuân Thưởng (1860-1887): Lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Bình Định.
Mai Xuân Thưởng lúc nhỏ tên là Phạm Văn Siêu, là sĩ phu và
là lãnh tụ phong trào kháng Pháp cuối thế kỷ 19 ở Bình Định (Việt Nam).
Mai Xuân
Thưởng là người thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tuy Viễn (nay là huyện Tây
Sơn, tỉnh Bình Định).
Năm 1884, ông
đỗ cử nhân ở trường thi Bình Định. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua
Hàm Nghi, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa quân phối hợp với nghĩa quân của Tổng đốc
Đào Doãn Địch ốm chết, Mai Xuân Thưởng được tôn làm nguyên soái. Tháng 9 năm
Aát Dậu (1885), ông làm lễ tế cờ tại Lộc Đổng, rồi xuất quân diệt giặc, thanh
thế của nghĩa quân lan rộng, lừng lẫy. Những trận đánh ở Cẩm Vân, Thủ Thiện đã
gây cho địch nhiều tổn thất. Không bắt được Mai Xuân Thưởng, thực dân Pháp đã
bắt giam mẹ ông. Vì chữ hiếu theo quan niệm của người xưa, ông đã ra nộp mình
tại đình Phú Phong. Khi được khuyên ra hàng, ông khẳng khái trả lời: "Chỉ
có đoạn đầu tướng quân, chứ không có hàng đầu tướng quân!"
Bọn giặc giải
ông về thành Bình Định và xử chém vào ngày rằm tháng tư năm Đinh Hợi (1887).
Năm đó, ông mới 27 tuổi.
7-
Nguyễn Ưng Lịch (1872-1943): Tức vua Hàm Nghi. Hàm Nghi là vị
vua thứ tám triều Nguyễn, con của Kiến Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, em ruột
vua Kiến Phúc.
Năm 1883 và 1884, triều đình Huế ký các Hiệp ước Harmand và
Patenôtre đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt
Nam chuyển sang một bước ngoặc. Ngày 5.7.1885, Tôn Thất Thuyết thuộc phái chủ
chiến bất ngờ tiến công quân Pháp ở Huế nhưng thất bại. Tôn Thất Thuyết đưa Hàm
Nghi rút lên miền núi các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, ra chiếu Cần Vương
kêu gọi nhân dân ra sức giúp vua, cứu nước, được nhân dân cả nước tích cực
hưởng ứng.
Ngày
1.1.1888, Hàm Nghi bị Trương Quang Ngọc phản bội, bắt và giao cho Pháp. Hàm
Nghi bị đưa đi an trí ở Algéri. Hàm Nghi vẫn giữ lối sống truyền thống của đất
nước và dân tộc Việt Nam. Năm 1943, vua Hàm Nghi mất ở Alger thọ 71 tuổi.
8- Phan Chu Trinh (1872-1926):
Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt
Nam và là người chủ trì vận động phong trào Duy Tân dân chủ.
Phan Châu
Trinh còn được gọi Phan Chu Trinh, hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán, sinh
ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay
thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam.
Ông nổi tiếng
học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý
Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang, và Phạm Liệu.
Năm sau (1901), triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng, đồng
khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế. Khoảng thời gian này ông ở nhà dạy học đến năm
1903 thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ. Là một người yêu nước nồng nàn, nhìn đất
nước lầm than, ông bôn ba khắp đất nước tổ chức các buổi diễn thuyết dân chủ và
là người chủ trì vận động phong trào Duy Tân với mong muốn thay đổi suy nghĩ,
thay đổi tình trạng đất nước.
Tiếc thay đại
cuộc chưa thành, bệnh tình của Phan Chu Trinh mỗi ngày một thêm trầm trọng.
Ngày 24 tháng 3 năm 1926 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) nhà cách mạng ái quốc
Phan Chu Trinh đã trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ được 55 tuổi.
Ngày 4-4-1926
khắp từ Nam chí Bắc đều tự động làm lễ bãi khóa và làm lễ quốc táng nhà chí sĩ
Phan Chu Trinh rất trọng thể để chứng tọ tấm lòng ngưỡng mộ và mến tiếc nhà
cách mạng đã suốt đời vì dân vì nước.
9- Dương Bá Trạc (1884-1944): Tham
gia phong trào Duy Tân, tác giả “Nét mực tình”.
Dương Bá Trạc, biệt hiệu Tuyết Huy, sinh ngày 22 tháng 4 năm
1884, quê làng Phú Thị, nay thuộc xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông
là con Dương Trọng Phổ (1862-1927), một nhà Nho có tư tưởng tiến bộ, là anh
ruột Dương Quảng Hàm (1898-1946) và Dương Tụ Quán (1902 -1969), cả hai đều là
nhà giáo tiến bộ thời cận đại.
Là người rất thông minh, mới 16 tuổi, Trạc đã thi đỗ cử nhân
(khoa năm Canh Tý 1900)
Đỗ đạt rồi, Bá Trạc không ra làm quan như thói thường. Ông
ôm khát vọng thức tỉnh quốc dân khỏi cơn mê nô lệ, chống sự đô hộ của thực dân
đế quốc. Ông từng cùng Phan Châu Trinh đi diễn thuyết nhiều nơi, cổ động chủ
nghĩa duy tâm tự cường, cùng Tăng Bạt Hổ lên thăm Đề Thám ở Nhã Nam, đi suốt từ
Bắc vào Nam để gặp gỡ bạn bè, chiêu mộ các chí sĩ yêu nước. Cả đời bôn ba,
trong lòng ôm mối hận chưa thỏa được chí cứu nước, Dương Bá Trạc sinh bệnh và
mất ngày 11 tháng 12 năm 1944 tại Singapore, thọ 60 tuổi.
10- Hồ Biểu Chánh (1884-1958): Là một nhà văn tiên phong của miền Nam Việt
Nam ở đầu thế kỷ 20. Hồ Biểu Chánh là tên thật, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên,
tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền
Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó
chuyển qua học quốc ngữ. Ông là một công chức thanh liêm thời Pháp thuộc, làm
Chủ quận (Quận Trưởng) nhiều quận ở Nam Kỳ thuộc Pháp. Với bút danh Hồ Biểu
Chánh, ông viết nhiều thể loại: thơ, truyện ngắn, khảo luận, phê bình, kịch, và
đã xuất bản hơn sáu mươi tiểu thuyết. Ông được xem là một trong những nhà văn tiên
phuông góp phần khai phóng văn học miền Nam đầu thế kỷ 20. Ông mất ngày 4 tháng
9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi.
11- Phạm Hồng Thái (1896-1924):
Tham gia hoạt động phong trào Đông Du và là người đặt bom ám sát toàn
quyền Đông Dương.
Phạm Hồng Thái
tên thật là Phạm Thành Tích, quê Nghệ An, là con quan Huấn đạo Phạm Thành Mỹ. Là
một người yêu nước, sớm tham gia các phong trào dân chủ, năm 1918 ông cùng với
một nhóm thanh niên có tâm huyết theo Vương Thúc Oánh (thành viên Việt Nam
Quang phục Hội) vượt biên qua Xiêm (Thái Lan) rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc).
Tháng 4 năm 1924, ông gia nhập Tâm Tâm Xã do Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn thành lập.
Chiều tối ngày 19 tháng 6 năm 1924, Phạm Hồng Thái đặt bom ám sát toàn quyền
Đông Dương Meclanh. Vụ đặt bom thành công, bom nổ nhưng Mec-lanh thoát chết,
chỉ bị thương. Bị cảnh sát phát hiện và truy đuổi ráo riết, Phạm Hồng Thái
nhanh chóng thoát ra ngoài, nhảy xuống sông Châu Giang định bơi sang bên kia
bờ. Nhưng dòng nước xoáy làm Phạm Hồng Thái không đến được điểm hẹn, ông đã anh
dũng hy sinh lúc chỉ mới 28 tuổi. Sự kiện này đã được báo chí Trung Quốc và
nhiều nước trên thế giới đưa tin nhiều ngày liền với tên gọi “Tiếng bom Sa
Điện”.
Nhân dân Quảng
Châu cho đó là hành vi nghĩa liệt, đưa thi thể Phạm Hồng Thái mai táng ở chân
đồi Bạch Vân.
12- Khải Hưng (1896-1947): Khái
Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được
ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư.
Ông sinh năm 1896,
xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Cha ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông
là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu.
Khái Hưng đi
học ở trường Albert
Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời
gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục
Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932,
Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng
đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng
hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị
Linh.
Khái Hưng
tham gia Tự Lực Văn Đoàn do
Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932,
và đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba
thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo.
Cùng thời gian
đó, Tự Lực Văn Đoàn ra tờ báo Phong Hóa. Về sau khi Phong Hóa bị đóng cửa
thì tờ Ngày Nay
thay thế. Cùng với báo, Tự Lực Văn Đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay. Toàn bộ
tác phẩm của Khái Hưng đều do Ngày Nay và Đời Nay công bố.
Là một trong những cây bút chính của nhóm, tiểu thuyết đầu
tay của Khái Hưng Hồn bướm mơ tiên (1933) là tiểu thuyết đầu tiên của Tự
Lực Văn Đoàn. Tiểu thuyết cuối cùng của ông là Thanh Đức (1943) và cũng
là tiểu thuyết cuối cùng của nhóm. Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai
tiểu thuyết là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra đời chung tập
truyện ngắn Anh phải sống cùng năm 1934.
Ông mất năm 1947 lúc 51 tuổi.
D- NHỮNG NĂM THÂN ĐÁNG GHI NHỚ
TRONG SỬ VIỆT:
*Năm
Giáp Thân 144, nhân dân ở quận Nhật Nam nổi dậy, liên kết với
nhân dân ở quận Cửu Chân đánh phá các quận ấp của bọn thống trị Đông Hán, làm
tan rã chính quyền đô hộ của nhà Hán Trung Hoa.
*Năm
Mậu Thân 468, người ở Giao Châu là Lý Trường Nhân lãnh đạo nhân
dân nổi dậy chống Tống thắng lợi, chiếm giữ Giao Châu, tự xưng là Thứ Sử.
*Năm Bính Thân 1056,
dưới triều Lý, vua Lý Thánh Tông hạ chiếu khuyến nông, mở đầu với quy mô lớn
chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp.
*Năm
Giáp Thân 1224, Trần Thủ Độ ép Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con
gái út là công chúa Lý Phật Kim - một bé gái 7 tuổi được lên ngôi, trở thành Nữ
hoàng đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Việt Nam với hiệu là Chiêu
Hoàng.
*Năm
Nhâm Thân 1272, Bộ Ðại Việt Sử Ký, bộ quốc sử đầu tiên của nước
ta được Lê Văn Hưu hoàn thành. Đây là công trình sử học đồ sộ và toàn diện nhất
thời kỳ cổ trung đại nước ta.
*Năm
Giáp Thân 1284, diễn ra Hội Nghị Diên Hồng nổi tiếng nhất trong
lịch sử, do Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông triệu tập để trưng cầu ý toàn dân
về chủ trương HÒA hay CHIẾN với quân Nguyên - Mông sang xâm lược nước ta lần
thứ II. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn công bố áng hùng văn “Hịch tướng sĩ” và
mở cuộc tổng duyệt binh thủy bộ, chuẩn bị sẵn sàng chống 50 vạn quân Nguyên -
Mông sắp sang xâm lược.
*Năm
Bính Thân 1416, Lê Lợi tổ chức Hội thề Lũng Nhai (Thanh Hóa),
cùng 18 vị anh hùng hào kiệt tổ chức lễ tế cáo trời đất, kết nghĩa anh em,
nguyện hợp sức phát động cuộc khởi nghĩa đánh giặc Minh.
*Năm
Mậu Thân 1428, cuộc kháng chiến chống giặc Minh toàn thắng. Lê
Lợi lên ngôi Hoàng đế (tức vua Lê Thái Tổ) ở Đông Đô, đổi niên hiệu là Thuận
Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, ban bố "Bình Ngô đại cáo"
của Nguyễn Trãi, đây chính là "Tuyên ngôn độc lập" lần thứ 2
của dân tộc ta.
*Năm
Nhâm Thân 1632, ở đàng trong (miền Nam) chúa Nguyễn bắt đầu cải
cách cơ cấu tổ chức, quản lý, làm sổ hộ tịch và định lại chế độ thuế khóa.
*Năm
Bính Thân 1776, khởi nghĩa Tây Sơn lan rộng và giành nhiều
thắng lợi. Nguyễn Lữ đem thủy binh đánh chiếm Sài Gòn khiến chúa Nguyễn đại
bại, phải chạy về Đồng Nai. Nguyễn Nhạc xưng vương, hiệu Thái Đức, lấy Quy Nhơn
làm kinh đô, sửa sang lại thành Đồ Bàn làm Hoàng Đế thành (tục gọi Đế
Kinh).
*Năm
Mậu Thân 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế (Quang Trung Hoàng
Đế) rồi xuất quân ra Bắc lần thứ hai đánh bại 29 vạn quân nhà Thanh (Tàu) xâm
lược.
*Năm Nhâm
Thân 1812, Quốc triều luật lệ còn gọi là “Luật Gia Long” gồm 22
quyển với 398 điều biên soạn xong, đây là Bộ luật tổng hợp lớn nhất trong lịch
sử phong kiến nước ta.
*Năm
Bính Thân 1836, triều Nguyễn xác định chủ quyền toàn vẹn trên
quần đảo Hoàng Sa, cử Đội Trưởng Thủy quân Phạm Hữu Nhật, người làng An Vĩnh
(Lý Sơn, Quảng Ngãi), đem binh thuyền đến đo đạc, cắm mốc, dựng bia chủ quyền ở
quần đảo Hoàng Sa, một chứng cứ lịch sử cơ bản cho chủ quyền Hải phận Việt Nam.
(Sưu
tầm)
Hồ Xưa sưu
tầm từ nhiều nguồn kết hợp lại_________________________________
Kính Chúc Mừng Năm BÍNH THÂN (2016):
AN KHANG, THỊNH VƯỢNG
*
Hồ Xưa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét