Di ảnh của Nguyễn
Trãi (1380-1442)
Quý Thầy Cô và quý bạn thân mến,
Thời gian! Cánh thời gian sao nhanh
quá! Mới đây mà năm 2015 đã hết! Chợt liên tưởng đến mấy câu thơ của Lý Bạch,
mà lòng luống những bồi hồi:
Hựu
bất kiến,
Cao đường minh kính
bi bạch phát,
Triêu như thanh ti,
mộ thành tuyết.
Tương tiến tửu – Lý Bạch.
又 不 見
高 堂 明 鏡 悲 白 髪
朝 如 青 絲 暮 成 雪
將 進 酒 - 李 白
Lại
chẳng thấy,
Gương tỏ rạng,
Nhà cao,
Buồn tóc trắng:
Mới sáng óng xanh tơ,
Mà chiều đổi bạc phơ!
Ngân Triều dịch
Trăm năm của kiếp nhân sinh chỉ dài trong gang tấc; ngắn ngủi như kiếp hoa Phù
Dung sớm nở tối tàn. Một thoáng ngẫm nghĩ sự đời…sự đời đã vậy; buồn lặng mà chi cho lòng nặng mối vương.
Vậy thì, nhân dịp Xuân Bính Thân 2016 sắp đến,
kính mời quý Thầy Cô cùng tôi nhớ lại
bài thơ Mộ Xuân tức sự của Nguyễn
Trãi (1380-1442) như nhớ một chút hương trong
gió, chan hòa trong những hương sắc bát ngát của trời Xuân:
Nhàn trung tận nhật bế
thư trai, (1)
Môn ngoại toàn vô tục
khách lai. (2)
Đỗ Vũ thanh trung Xuân hướng
lão, (3)
Nhất đình sơ vũ luyện
hoa khai. (4)
Ức trai thi tập,
Nguyễn Trãi
*Nguyên
tác chữ Hán
暮 春 即 事
閑 中 盡 日 閉 書 齋 (1)
門 外 全 無 俗 客 來 (2)
杜 宇 聲 中 春 向 老 (3)
一 廷 疏 雨 楝 花 開 (4)
抑 齋詩 集 ,阮 薦
*Chú thích:
Mộ Xuân: 暮 春: Buổi chiều ngày Xuân.
Mộ Xuân: 暮 春: Buổi chiều ngày Xuân.
Tức sự: 即 事: cảm tác về sự
vật ở trước mắt.
Nhàn: 閑: Cửa hai cánh;
thong thả, rảnh rang. (Cửa một cánh là hộ:
戸;
cửa 2 cánh là môn: 門; hình hai cánh
cửa ra vào, dùng để ngăn cách bên ngoài có cây cối mộc: 木 với bên trong, là chữ nhàn, 閑 tức là cánh cửa.
Đồng nghĩa với chữ : nhàn: 閒ngắm ánh trăng, nguyệt 月soi trước cửa nhà mình, môn門, cũng là nhàn, 閒thong thả, rảnh
rang).
Cụ Nguyễn Công Trứ cũng đã có 2 câu thơ chơi chữ, trong bài hát
nói Chữ Nhàn, xin ghi lại :
Thị tại
môn tiền náo
Nguyệt
lai môn hạ nhàn
巿 在 門 前 閙
月 來 門 下 閒
Nghĩa là:
Chợ
trước cửa nhà mình, thì ồn ào. (Chữ thị巿,ở
chỗ chữ môn門là chữ náo 閙: ồn ào, lộn xộn).
Ngắm ánh trăng soi xuống trước cửa nhà mình,
là nhàn. (Chữ nguyệt月dưới chữ môn門, là chữ nhàn 閒, thong thả, rảnh rỗi.
Nhàn trung閑 中, trong cánh cửa,
trong nhà.
Tận nhật 盡 日 , ngày hết, trời
đã về chiều.
Bế thư trai: 閉 書 齋 khép cửa phòng
đọc sách, phòng làm việc tại gia của nhà nho hoặc thư sinh khá giả ngày xưa
Môn ngoại: 門 外 , ngoài cửa.
Toàn vô: 全 無 , hoàn toàn,
tuyệt nhiên không có.
Tục khách lai: 俗 客 來 , khách quen đến.
Đỗ Vũ: 杜宇) hay Đỗ
Quyên:杜鹃) là tên của loài chim Cuốc, ngoài ra nó còn có
tên gọi khác là Tử Quy. Giống chim này đầu mỏ hơi cong, miệng to, đuôi dài,
lông lưng màu tro, bụng trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường sống chui
lủi trong bụi rậm, hồ nước hoặc ao chuôm. Đến thời điểm đầu mùa Hạ cuối mùa
Xuân thì loài chim này bắt
đầu kêu, chủ yếu vào những đêm trăng mờ tĩnh mịch, giọng kêu nghe thảm thiết, bi ai, gợi cho lữ khách tha phương động lòng
nhớ về quê cũ, nơi in đậm những
kỷ niệm của một thời thơ ấu không bao giờ quên:
Cụ
Tam Nguyên Yên Đỗ, đã cảm tác về tiếng kêu con Cuốc, cả 8 câu thơ dưới đây, không
có chữ cuốc nào, nhưng mỗi câu đều
khơi gợi hình ảnh và cuộc đời con chim cuốc đáng thương. Bài thơ mở đầu là tiếng
kêu khắc khoải, lửng lơ, như
cao-thấp, xa-gần, như tỉnh-như mơ; kết thúc bài thơ là một tâm trạng thắc thỏm,
vang vọng ở hai chữ“ngẩn ngơ”, sâu
lắng; (khắc khoải là có tâm trạng bồn
chồn, lo lắng không yên, kéo dài một cách day dứt; “ngẩn ngơ” là ở trạng thái như không còn chú ý gì đến xung quanh,
vì tâm trí đang để ở đâu đâu); qua đó, bài thơ như gieo vào lòng người đọc một
tình cảm chạnh lòng, réo rắt những hoài niệm tha thiết, miên man. Thật tuyệt
vời:
Khắc
khoải đưa sầu giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ?
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ
. Cuốc kêu
cảm hứng, Nguyễn Khuyến
Theo
sách Sưu thần ký thì Đỗ Vũ là tên một vị vua nước
Thục thời Chiến Quốc, xưng đế hiệu Thục Vọng Đế (蜀望帝),
vua thông dâm với phu nhân của vị tướng quốc bấy giờ là Biết
Linh (鳖灵). Khi bị lộ, vua cả thẹn, bèn nhường ngôi cho vị
tướng quốc này. Tuy nhiên sau khi nắm quyền lực trong tay thì Biết Linh ngược
đãi Đỗ Vũ, khiến vua phải bực tức, buồn rầu, bỏ nước ra đi, chẳng bao lâu thì chết. Theo giai thoại dân gian, hồn vua hóa thành
một loài chim, suốt ngày chỉ kêu "quốc, quốc". Người ta bảo đấy là tiếng
kêu của Thục Đế tiếc thương nước cũ. Do
đó, dân gian mới đặt tên cho giống chim
đó là chim Cuốc.
Trong văn học cổ điển người ta
thường dùng tích Đỗ Vũ (hoặc Đỗ Quyên) để nói lên nỗi lòng thương nhớ quê hương,
khi bôn ba, phiêu bạt nơi đất khách quê người:
Khúc
đâu êm ái xuân tình,
Ấy
hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên.
ĐTTT, Nguyễn
Du, câu 3201-3202
(Nguồn:
Theo Wikipedia)
Thanh trung: 聲 中, nghe tiếng kêu.
Xuân
hướng lão: 春 向 老 , Xuân sắp hết, hay bấy giờ, sắp đến
mùa Hạ.
Nhất đình: 一 廷, một sân, hay dịch thoát , ngoài sân.
Sơ vũ: 疏雨 , mưa thưa, mưa bụi,có thể là bấy giờ trời còn mưa
phùn.
Luyện hoa khai: 楝 花 開, hoa xoan nở.
*Dịch nghĩa:
Cảm tác nhân nghe thấy những sự việc
trước mắt
(Bây giờ), trong
cánh cửa thư phòng, ta nhàn nhã cả ngày, chỉ có công việc đơn điệu, (đọc sách ?)
và một mình khép mở cửa phòng văn. (1)
Bên ngoài cửa vắng
ngắt, tuyệt nhiên không có một bóng
khách quen nào đến thăm. (2)
(Khi ấy), vẳng nghe
tiếng chim Cuốc khắc khoải, sầu đưa, lửng
lơ, ta mới biết rằng mùa Xuân nầy sắp hết. (3)
Trước sân, màn trời
giăng đầy mưa bụi, (qua đó, chỉ còn thấy), những chùm hoa xoan nở, trong màu hoa
trắng thuần khiết, thanh cao; pha chút tím ngát ngoạn mục, nhớ mong, trong một
buổi chiều xuân trống vắng, lạnh lùng. (4)
Hoa
xoan, ảnh minh họa Google,
*Xuất
xứ:
Bài thơ nầy trích trong tập thơ chữ
Hán, Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi
và được cảm tác vào một buổi chiều Xuân, có thể lúc ông đã về trí sĩ nơi quê
ngoại ở Côn Sơn, nay là Khu di tích
Côn Sơn - Kiếp Bạc là một trong 62 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Quần thể di
tích này thuộc địa bàn thị xã Chí Linh, Tỉnh Hải Dương.
( Hải Dương là một tỉnh nằm ở đồng bằng sông Hồng, thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Việt Nam.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành
phố Hải Dương
nằm cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía Đông, cách thành phố Hải
Phòng 45 km về phía Tây; phía Tây-Bắc giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Bắc giáp
tỉnh Bắc
Giang, phía Đông-Bắc giáp tỉnh Quảng
Ninh, phía Đông giáp thành phố Hải
Phòng, phía
Nam giáp tỉnh Thái
Bình và phía Tây giáp
tỉnh Hưng
Yên. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương là đô thị loại 2, theo quy hoạch năm
2007, Hải Dương nằm trong Vùng Thủ đô với vai trò là một trung tâm công
nghiệp của toàn vùng).
1/- Thân thế Nguyễn Trãi:
阮 薦, (1380 – 19/9/1442), Hiệu là Ức Trai, 抑齋. -Quê gốc ở làng
Chi Ngại, (Làng Ngái), huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị
Khê, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông, nay thuộc Thủ đô Hà Nội.
-Cha là Nguyễn Phi Khanh, hiệu
Ứng Long, đỗ Thái Học Sinh năm 1734, đời Trần Duệ Tông, làm quan đời Nhà Hồ, có
tác phẩm Nhị Khê thi tập.
-Mẹ
là Trần Thị Thái, dòng dõi quý tộc, con gái Tể Tướng Trần Nguyên Đán
(1320-1390), cuối đời Trần; ông có tập thơ Băng
Hồ Ngọc Hác.
-Năm
6 tuổi, mẹ mất; năm 10 tuổi, Ông ngoại mất; phải về sống với cha đang dạy học ở
Nhị Khê.
-Năm
20 tuổi, đỗ Thái Học Sinh tức Tiến sĩ, hai cha con đều làm quan trong triều đại
Nhà Hồ.
-Năm
1407, giặc Minh sang cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị đày chung thân khổ sai
sang Tàu. Nguyễn Trãi bị giam lỏng trong 10 năm rồi trốn thoát.
-10
năm làm quân sư kiệt xuất cho Lê lợi, kháng chiến chống giặc Minh thành công
vào năm 1428. Cũng năm nầy, sau đó, Ông bị bắt giam, bị cách chức rồi thả ra,
chẳng được tin cậy như trước.
-Năm
1440, được giao nhiều việc quan trọng.
-Năm 1442, Vụ án Lệ Chi Viên,
Ông bị tru di tam tộc, đầy oan ức. Vụ án thi hành một cách gấp rút, uẩn khúc,
chỉ có 10 ngày! Toàn bộ những trước tác
có giá trị nhiều mặt của ông đều bị thiêu hủy.
- Mãi đến năm 1464, Vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu giải oan cho ông và cho sưu tầm, chép lại
những tác phẩm đã mất qua trí nhớ của các Nhà Nho, các quan lại và trong dân
gian. (Chắc là tam sao thất bổn, sao bằng
được nguyên tác!).
2/-Sự
nghiệp văn chương:
-Tác phẩm bằng chữ Hán: Quân
Trung Từ Mệnh Tập, Đại cáo Bình Ngô, Các loại văn thư ngoại giao, chiếu, chế,
biểu …Nổi tiếng là Bài Bình Ngô Đại Cáo, rực sáng tinh thần yêu nước, chống
ngoại xâm, tư tưởng Nhân Nghĩa cao cả của dân tộc ta.
-Tập thơ Ức Trai Thi Tập (Hán) và Tập thơ Quốc Âm Thi Tập (Nôm) với chủ đề ca ngợi cuộc sống thanh đạm, dân
dã, vì nước, vì dân.
-Vua Lê Thánh Tông, trong bài Quân minh thần lương君明臣良nghĩa là Vua
sáng, tôi hiền có ca ngợi Nguyễn Trãi trong câu thơ (1) dưới đây:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê
tảo (1)
Vũ Mục hung trung liệt giáp binh.
抑 齋 心 上 光 奎 藻
Nghĩa
là:
Lòng Ức Trai (trong văn chương), đã tỏa sáng
đến văn chương của ta, (của Trẫm).
Bụng Vũ Mục chứa đầy binh giáp.
(Vũ Mục: Tư Mã Lê Khôi, thuỵ
là Vũ Mục, cháu gọi Thái Tổ Cao Hoàng Đế bằng chú, thâm trầm hùng dũng, tài
lược hơn người, đánh quân Minh tới đâu được đấy, trấn thủ thành Thuận Hoá,
người Chiêm Thành khiếp sợ).
(Khuê 奎là ánh sao Khuê chỉ
văn chương; tảo 藻là rong biển có màu sắc óng ánh; Khuê tảo奎藻văn chương và thư họa của bậc Đế vương, ở đây Khuê tảo chỉ văn chương của Vua Lê Thánh Tông)
Nhớ lại trước
đây, trong sgk 10:
Ức
Trai tâm thượng quang Khuê tảo
抑 齋 心 上 光 奎 藻
Được dịch là:
Lòng Ức Trai sáng tựa sao Khuê.
Nxb
Giáo Dục 2002
Tấm
lòng Ức Trai sáng như sao Khuê, (bỏ qua chữ tảo). Thật ra sao Khuê
chỉ văn chương mà không sáng!. Có người còn ngẫu hứng, bổ sung, điểm thêm một
chút lãng mạn, trữ tình khi giảng cho học sinh câu nầy:
Lòng Ức
Trai sáng tựa sao Khuê, lấp lánh
trên nền trời hừng đông, hiu quạnh.(!!!)
(chữ hừng
đông ý muốn dịch chữ tảo. Thực ra chữ tảo早 là hừng đông, sáng sớm, không phải là chữ tảo 藻 trong nguyên tác là rong rêu đẹp; hiu quạnh ý muốn lý giải về cuộc đời bị oan uổng của
Nguyễn Trãi; oan uổng 冤 枉 là bị khép vào một
tội nặng mà không cách nào biên bạch. Vậy
cặp từ ghép Khuê tảo奎藻:văn chương và thư họa của bậc Đế vương, ở
đây Khuê tảo chỉ văn chương của Vua
Lê Thánh Tông, của nhà vua, của trẫm,
như đã nói ở trên).
Hơn
nữa Vua khen Nguyễn Trãi là khen về nhân sinh quan, thế giới quan của ông trong
văn chương, tức là những tình cảm và tư tưởng qua thơ văn đó, đâu phải khen về
nhân cách, tức là những công sức, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của
ông, nhất là trong Kháng chiến chống Giặc Minh. Ông đã bị án oan, phải bị tru
di tam tộc ở đời vua trước, tức là tiền nhân của vua đã phủ nhận hoàn toàn sự
nghiệp của ông rồi…vua thuộc về đời sau, trước sự đã rồi của cha ông mình như vậy,
làm sao vua dám khen nhân cách của ông. Cho nên qua câu thơ trên, ý vua muốn khen ông về mặt văn chương: Lòng Ức Trai (trong văn chương), đã soi sáng văn chương của ta, (của Trẫm).
. Nổi bật nhất là văn phong chính luận hào sảng, tuyệt
vời của ông. Tiêu biểu là bài Bình Ngô
Đại Cáo được viết ra sau khi quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi: bút thần đanh
thép, thỏa lòng; nội dung tâm phục, khẩu phục mà khoan nhượng; quyết chiến,
quyết thắng mà bao dung; sang sảng căm thù tố cáo tội ác của giặc mà nhân hậu;
sừng sững như một bản Tuyên Ngôn Độc Lập toàn bích lần thứ hai, như một áng
thiên cổ hùng văn, sáng ngời tinh thần yêu nước, quật khởi chống ngoại xâm;
chất ngất tư tưởng Nhân Nghĩa cao cả, trí tuệ, bản lĩnh, khí phách, truyền
thống hào hùng của dân tộc ta.
Quả thật, Nguyễn Trãi xứng
đáng là một vị anh hùng dân tộc, một nhà văn, nhà thơ xuất chúng; một thiên tài
nhiều mặt, và là danh nhân văn hóa, có công đóng góp lớn lao cho sự phát triển
văn học và tư tưởng Việt Nam.
3/-
Đại ý bài thơ:
Cảm tác về sự việc trước mắt và
tâm sự của tác giả, khi đã về trí sĩ, trong một buổi chiều tà ngày Xuân.
4/-
Lời bình, Ngân Triều:
a/- Hai câu đầu: bao gồm những sự viêc ở trong
và ngoài cánh cửa thư phòng:
Nhàn trung tận nhật bế thư trai, (1)
Môn ngoại toàn
vô tục khách lai. (2)
閑 中 盡 日 閉 書 齋 (1)
門 外 全 無 俗 客 來 (2)
Trong
cánh cửa thư phòng là công việc! Một công việc đơn điệu, nhàm chán. Một
công việc có thể không đáng gọi đó là công việc. Một công việc cùa cảnh nhàn nhã, không có tính cách rộn ràng, cấp
tập như của công việc nước non; mà chỉ có công việc thường nhật nhẹ nhàng cả ngày như đi vào, đi ra, khép mở phòng văn. (Sao buồn cười cho ta quá vậy! Phải nhàn thôi! Ta đã nghỉ hưu rồi mà!)
Ngoài
cánh cửa thư phòng là một nỗi niềm. Khi công việc suốt ngày đã nhàm chán, thì
có nỗi niềm tâm sự là đương nhiên. Nỗi niềm ở đây chính là tấm lòng mong ngóng người quen. Người quen còn chẳng có ai đến
thăm, huống chi là bạn bè thân thiết. Tuyệt
nhiên không có người quen, không có bạn bè thì nỗi niềm cô đơn, trống vắng,
buồn lặng cứ đến xâm chiếm tâm hồn. Trong cô đơn, nỗi mong nhớ người rất da diết.
Cho dẫu biết rằng ngoài trời thời tiết chiều mưa lưa thưa lạnh, (mưa phùn), có
mấy ai già yếu mà lui tới thăm nhau, chia sẻ vui buồn trong cuộc trà dư tửu hậu.
Cho hay, nhàn nhã, cô đơn, hiu quạnh mà không có bạn, cũng buồn.
b/-Hai
câu kết :là những chi tiết về âm thanh và hình ảnh:
Đỗ Vũ thanh
trung Xuân hướng lão, (3)
Nhất đình sơ
vũ luyện hoa khai. (4)
杜 宇 聲 中 春 向 老 (3)
一 廷 疏 雨 楝 花 開 (4)
Con
chim Cuốc ở đâu mà tiếng kêu của
nó nghe rất bi thương! Phải chăng âm thanh đó như tiếng réo gọi của nước non nhắc
ta công việc? Mùa Xuân nầy hầu như sắp hết,
cũng như đời ta, nay đã qui khứ điền viên, tuổi về quê an dưỡng cảnh già. Việc
nước non, hãy giao lại cho lớp hậu sinh khả úy, rường cột nước nhà, đem hết tài
trí và tấm lòng, làm cho núi sông hoành tráng, vẻ vang.
(Chuyện
hão! Có phải ta đã lẩn thẩn rồi không? Mưa ướt lạnh, sao còn mong bạn tới? Cảm
tiếng cuốc kêu, ta mong có việc cho mình(?). Ai biết rằng, ta đã già yếu rồi,
tuổi Xuân như đã hết, tuổi hưu thì đành bất cập, lực bất tòng tâm).
Những sự việc trước mắt đó, quả đã gợi
cho ta nhiều nỗi bâng khuâng để ta thấu hiểu lẽ đời. Ô! Thật ấm lòng biết bao!
Khi ta chợt thấy: Trước sân, màn trời giăng
đầy mưa bụi phơn phớt; qua đó, chỉ có
những chùm hoa xoan tươi cười, đu đưa
khoe mình trong mưa gió, nõn nà màu trắng thuần khiết, thanh cao; đượm chút tím
ngát ngoạn mục, nhớ mong. Kìa trông! Những chùm hoa xoan ấy, hồn nhiên, thanh
thản trong mưa bụi ướt , như tỏ rõ một phong cách cao khiết, khả ái, thân
thương đã đến chia sẻ nỗi niềm với ta, trong một buổi chiều Xuân, mưa phùn phơn
phớt lạnh, lòng buồn dạt dào trong mấy nỗi cô liêu.
Tóm lại, qua bài
thơ tuyệt cú Đường luật nêu trên, tuy bó rọ trong khuôn khổ âm-thanh-vần-nhịp-niêm-luật
…nhưng ý tại ngôn ngoại của hồn thơ, đã nói lên được nhiều điều: Tác giả đã minh
họa một bức tranh về cuộc sống trí sĩ đơn điệu của một bậc đại thần bấy giờ; một
công việc nhàn nhã, se lòng; một bản tình ca không tên, ngùi nhớ những người
quen biết cũ, những bằng hữu ngày xưa; một giai điệu u ẩn, tỏ lòng cao cả với
nước non và tâm hồn của một nhà thơ kiệt xuất, thanh đạm, trong sáng, thanh cao.
5/-Diễn thơ:
Cuối Xuân tức sự
(Sgk lớp 10, nxb
Giáo Dục, năm 2002 )
Suốt ngày
nhàn nhã khép phòng văn.
Khách tục
không ai bén mảng gần.
Trong tiếng
cuốc kêu Xuân đã muộn.
Đầy sân,
mưa bụi, nở Hoa Xoan.
*****
Cuối Xuân cảm tác
(Ngân Triều)
Chiều
tà nhàn khép phòng văn,
Người quen
chẳng đến, tình thân ngỡ ngàng!
Cuốc
kêu xao xuyến, Xuân tàn,
Mưa thưa,
duy chỉ Hoa Xoan vẫy chào.
Thân mến
Ngân
Triều
CGV Trường THPT HậuNghĩa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét