Chủ Nhật, 13 tháng 8, 2017

NGÔI NHÀ SAU THÀNH PHỐ - Chuyện Ngắn của Tru Sa

Sau con đường gồ ghề đầy những đá dăm và ổ gà này sẽ tới ngoại ô. Đất ở đây xấu, địa hình không được bằng phẳng nên chẳng có doanh nghiệp nào có ý định đầu cơ dù rằng phần đất này đủ rộng để xây dựng một nhà máy. Đã nhiều năm rồi, ở khu đất ngoại ô vắng vẻ này chỉ có một gian nhà gạch tồi tàn. Ngôi nhà nằm khuất sau lùm cây và hướng thẳng về phía con đường dẫn tới thành phố. Nhà xây mái ngói, tường xung quanh đã tróc để lộ ra màu đỏ của những viên gạch. Cửa sổ bụi đã ám đen, các con ốc ghim quanh cánh cửa cũng đã rỉ sét. Ngôi nhà được ngăn với bên ngoài bằng một lớp tường dày và bức tường đó dù đã tróc hết lớp xi măng bên ngoài nhưng nhìn vẫn rất chắc chắn.
Trong ngôi nhà chỉ có một lão già ốm yếu.
Lão đã già rồi nên rất ít khi ra ngoài. Phía sau vườn lão trồng rau, và vì trước đây khá lâu lão từng là một nông dân nên chẳng quá khó để làm ruộng rau trở nên tươi tốt. Mùa thu hoạch, nếu thời tiết thuận lợi, lão sẽ bán phân nửa cho mấy người bán rau, số còn lại thì để lại ăn. Rau lão giá phải chăng, lại rất tươi và không phun thuốc nên có rất nhiều người đặt mua, nhưng lão thì chỉ thỉnh thoảng mới đem rau ra bán.
“Tiền của ông đây” – Bà bán rau nói và đưa cho lão số tiền mua rau. Lão cầm lấy.
“Con cháu ông đi đâu cả rồi?”.
“Tôi ở một mình”.
“Chỉ một mình thôi ư, giữa ngoại ô”.
“Phải!”.
Lão đóng cửa, đi vào. Lão nói: “Ái chà, sắp phải nấu cơm nữa đây”.
Bên trong nhà chỉ có một chiếc giường lúc nào cũng kêu cót két, một cái tủ quần áo đã rụng mất cánh, vài thứ đồ đạc lặt vặt khác. Nhà không có ti vi, lão chỉ cập nhật tin tức thường ngày qua cái đài cũ mèm đặt phía cửa sổ, hoặc không thì lão chẳng cần, lão đâu còn trẻ nữa.
Bà già bán rau tên Hậu, tuổi xấp xỉ lão và có vẻ rất nghèo. Đó là những gì lão đoán được qua cách nói chuyện và bộ quần áo nâu sẫm lam lũ cùng khuôn mặt sạm đen, lốm đốm những nếp nhăn. Bà già này không phải người duy nhất mua rau của lão, trước đó cũng có vài người nữa nhưng họ chỉ đặt mua vài lần rồi biệt tăm. “Rồi thì chúng cũng sớm lỗ vốn thôi. Các người chẳng tìm được ở đâu rau lại tươi và rẻ như ở đây” – Lão nói. “Nếu mình gánh rau đem bán thì sẽ kiếm được đấy nhưng mình già mất rồi”.
Thời gian gần đây ít ai tìm tới mua rau của lão. Duy nhất chỉ có bà già tên Hậu này là khách thường xuyên. Bà lão này chẳng bao giờ trả thiếu hoặc khất lại hôm sau. Lão luôn để những mớ to và tươi nhất cho bà lão. Tiền lão không tính thêm.
Trời sẫm buông. Nắng nhòa. Gió kéo từng cơn ngắn. Ngôi nhà khuất sau con đường rồi nhá nhem, thiêm thiếp lúc nào không hay.
Bữa cơm của lão chỉ có một bát canh, đĩa rau rút luộc, vài lát cà chua và cốc rượu nhắm với vài củ lạc. Rượu lão rót vào cái chén con con dùng để uống trà. Mỗi lần uống lão chỉ dám nhấp một ngụm nhỏ nhỏ. Mọi ngày lão đều uống nửa cốc, khi cao hứng lắm thì rót nhiều thêm nhưng không bao giờ được rót đầy tới miệng hoặc để tràn ra ngoài. “Nghỉ ngơi một lát rồi đi rửa bát thôi” – Lão nói và gật gù. Cửa sổ nhà chẳng mở bao giờ, kể từ khi lão dọn về đây chưa một lần nào lão có ý định mở nó ra để nhìn ngắm khung cảnh bên ngoài. “Mà ích gì chứ” – Lão nâng chén lên, rượu hết rồi, chỉ còn vài giọt vương lại dưới đáy chén. Lão rót chút nước vào chén, lắc lắc cho hơi rượu quyện lại rồi tu một hơi hết sạch.
Hàng tháng lão vẫn phải lên thành phố lấy lương hưu. Hai triệu tư, đó là những gì lão có được sau một thời gian dài gắn bó trên đó. Phía sau vườn có một chiếc xe đạp mini cũ. Lão thường đạp nó lên thành phố. Lão nói: “Cái thành phố đó chán phèo, nhưng tiền lương của mình thì chẳng nên để trên đó mãi được.”
Con đường dẫn vào thành phố đi mất một tiếng. Những nhà cửa, cao ốc mọc quanh thành phố, người đi lại tấp nập, còi xe rú inh ỏi. “Cái thành phố này nhỏ bé quá, mà mình thì đã biết rõ rồi” – Lão không nói ra thành tiếng nữa mà chỉ lẩm bẩm vì nơi này không phải là ngoại ô và người thành phố thì chẳng hề muốn nhìn thấy một lão già hom hem vừa dắt xe vừa nói một mình.
Lão tìm về những khu nhà quen thuộc. Ở cuối phố có một ngôi nhà sang trọng. Nhà năm tầng, xây theo kiểu biệt thự có ống khói của châu Âu. Nhà có sân rộng và lão trông thấy đủ thứ bon-sai bên trong. Một bức tường kiên cố bao quanh nhà, phía trên những bờ tường là những thanh sắt sắc nhọn hướng lên trời. Cổng nhà cũng bằng sắt và giờ thì nó đã khóa chặt.
Lão vỗ vỗ đầu “Sao thế nhỉ? Mình lú lẫn mất rồi, đây đâu phải nhà mình”. Con béc-giê thấy bóng người lạ liền chồm dậy, gầm gừ. Con chó đủ lớn để thành mối đe dọa cho bất cứ kẻ lạ mặt nào. Đôi mắt với những tia vằn hung hãn cùng hàm răng sắc bén đang nhe ra cảnh giác lão nên rời khỏi đây. Lão đứng lặng hồi lâu, nhìn ngôi nhà. Con béc-giê chồm ra nhưng không làm cách nào giật đứt được sợi xích khóa trên cổ. Tiếng sủa lớn hơn, đôi mắt hung dữ lóe lên những tia máu, và nếu như cánh cổng kia được mở ra, nó sẵn sàng phá đứt xích để xông tới phía kẻ lạ mặt.
Lão lẩm bẩm: “Đâu có ai? Mà làm gì có ai chứ, ái chà mình lại lú lẫn rồi, nhà mình ở ngoại ô kia mà”. Lão dắt xe đi.
Hàng tháng lão vẫn lấy lương hưu đều đặn. Lão thường bỏ một chút ít trong số tiền đó để mua mỳ gói, cân gạo và một chai rượu. Quần áo thì lão chẳng mấy khi sắm. Lão thường mặc lại quần áo cũ, bộ nào đã rách thì lão khâu lại hoặc vá bằng một miếng vải cùng màu từ bộ áo quần cũ hơn.
“Ông lão ơi!”.
Lão nhìn ra, thấy phía vỉa hè là bà lão tên Hậu. Bà ta đang ngồi bán rau, cùng vài người già khác. Đã hơn tám giờ nên chẳng mấy ai mua rau, gánh rau của bà Hậu vậy đã là ế rồi. Bà Hậu gọi lão lại, lão tiến tới.
“Ông lão đi đâu vậy?”.
***
Lão thường hay uống rượu và chưa lần nào uống quá quy định. Rượu chỉ khiến đầu óc lão mụ mị thêm, mà lão thì đã mụ mị quá lâu rồi. “Uống nốt chút rượu rồi đi ngủ sớm thôi” – Lão nói. Bốn bức vách khép chặt lão với ngôi nhà, các ô cửa sổ xám xịt vì bụi bặm thời gian nhưng điều đó chẳng khiến lão bận tâm. Lão chỉ cần ở đây thôi, dù chiến tranh thế giới thứ ba có nổ ra, trên trời đang có sự va quệt sao chổi, mặt trăng đã bị lõm một lỗ hoặc hoang đường hơn là ở phía xa thành phố xuất hiện một con khủng long thời thượng cổ và nó đang trút cơn thịnh nộ xuống cả thành phố, thì lão cũng vẫn ngồi trong ngôi nhà này thôi.
Lão ngửa cổ, uống nốt chút rượu còn lại rồi đặt chén xuống. Rượu đã ngấm nhưng vẫn chưa làm lão say. Chiếc đài đã lâu không sửa nên âm thanh không còn rõ, tiếng người cứ rè rè, dần dần thì lão chẳng phân biệt được đâu là tiếng người đâu là tiếng sóng.
Cửa đã chốt từ lâu nhưng lão vẫn chưa thật sự yên tâm nên đã ra kiểm tra lại. Lão đập mạnh tay để cái chốt tiến sâu vào hơn. “Chà chà, thế là được rồi”. Lão nhìn ngó xung quanh, cúi xuống lấy viên gạch lát ở phía góc tường. Lão bới lớp đất lên. Một chiếc hộp gỗ lộ ra và lão nhấc nó lên. Lão mở chiếc hộp. Bên trong chẳng có vàng bạc, giấy tờ mà chỉ có môt chồng tiền dày. Những tờ tiền cũ kĩ, vài tờ dù có mệnh giá cao nhưng cũng đã nhàu nát, rất ít trong số đó là còn mới. “Tao chỉ còn mày thôi đấy, chỉ còn mày thôi…”. Lão thở dài, đóng chiếc hộp lại. Lão vùi nó xuống lớp đất rồi chèn viên gạch lên.
***
“Ông lão ơi! Ông lão ơi!”.
Lão tỉnh dậy. Cửa sổ vẫn đóng chặt như mọi ngày. Nhìn những tia nắng chiếu qua những kẽ hở của cánh cửa tràn vào phòng, lão biết trời đã sáng. Tia nắng vàng rực, có chút oi ả xuyên xuống thành những vết sáng vuông vức dưới nền nhà. Lão vẫn nằm trên giường, tay vắt lên trán. Mắt lão hơi lim dim. Phía ngoài tiếng gọi vẫn nhá từng nhịp.
Lão nằm hồi lâu rồi ngồi dậy: “Chắc là bà già bán rau. Mình đã nói rau lần này không được tươi rồi mà. Phiền quá”.
Công tắc đèn được bật lên. Lão đã tỉnh từ lâu nhưng đôi mắt lão vừa mới tiếp xúc với ánh sáng nên lão phải ti hí hồi lâu mới mở mắt nhìn bình thường. Chân lão bước run run, mái tóc trắng phủ xuống vai. Lão đi vài bước rồi ngồi xuống giường. Lão lấy chút dầu gió xoa đều rồi bóp trán. Phía ngoài tiếng gọi cửa vẫn dồn dập.
“Đợi một lát, tôi ra ngay” – Lão nói lớn.
Lão thấy hụt hơi. “Mình nói lớn quá” – Lão lẩm bẩm. “Chắc tại hôm qua uống rượu xong mình lại ra ngoài ngắm cảnh. Tối hôm qua gió lớn lắm mà”.
Mặt trời đã lên cao. Nắng gắt hơn và trải lác đác xuống như những chiếc lá mùa thu. Lão vỗ mặt cho tỉnh táo rồi ra ngoài mở cửa.
“Chào ông lão!” – Bà già tên Hậu nhìn lão mỉm cười.
“Tôi bảo là đợt này không bán mà”.
“Tôi biết, nhưng tôi tới không phải để lấy rau”.
Ông lão nhìn ra. Hai chiếc thúng đầy ắp rau. Luống rau còn tươi nhưng bé và xanh. Mấy củ cà rốt to nhỏ không đều, mấy trái bắp cải thì còn quá nhỏ.
“Mấy thứ rau này, sao bà có thể mua nhỉ?”.
“Chẳng được ngon như rau của ông trồng nhưng biết sao được”.
Bà lão mở thúng, lấy ra một cái chai nhựa cỡ như chai nước Lavie. Cái chai được nút chặt nhưng lão vẫn ngửi thấy mùi thơm của rượu Sanlung. Nhìn lớp bọt đùng đục nổi nơi miệng chai lão biết đây là rượu từ lò.
“Ông cầm lấy đi”.
“Tôi chẳng mua đâu”.
“Tôi biếu ông, nhà tôi còn mấy chai nữa cơ. Ông nhà tôi mất rồi mà mấy cháu thì làm ăn xa”.
“Tôi chẳng lấy đâu”.
Lão lùi vào trong cửa, mắt nheo nheo nhìn bà Hậu, bảo: “Hết tháng này tôi lại trồng rau, tôi sẽ trồng thêm bắp cải nữa, bà nhớ tới”.
Cánh cửa khép lại. Tiếng xích và khóa leng keng. Bà già tên Hậu đứng trước cửa hồi lâu. Chai rượu vẫn cầm trên tay. Lát sau, bà già bỏ về. Khi ấy, lão đi vào nhà.
***
Lão lại lên thành phố. Tất nhiên đây chẳng phải việc du ngoạn hay liên hệ với những nơi xây dựng để sửa chữa hay tân trang ngôi nhà. Lão đi lấy lương hưu, đã tới kỳ rồi. Các con phố được xây dựng khang trang hơn, có thêm vài tòa cao ốc chọc trời. Cầu thang bộ cao vút, đường cao tốc cũng cao vút.
“Ái chà! Trung tâm thương mại tài chính đã hoàn thành rồi, đẹp ra trò.”.
Lưng lão chưa đến nỗi gù nhưng nó vẫn hành hạ lão mỗi khi trở trời. Lão có bao giờ ăn đồ bổ đâu, lão chẳng dư giả gì, dù rằng cơm trắng, rau dưa thì tốt thật đấy nhưng ăn mãi mấy món đó thì lão sẽ chẳng đủ sức khỏe.
Lão đi bộ dưới con phố. Một cô gái gọi lại: “Anh giai ơi, làm tí không”. Lão chẳng ngoái lại, đi tiếp. Vài thanh niên tụ tập ở quán nước vỉa hè. Bà bán nước ngáp dài, phe phẩy quạt. Một thanh niên hỏi bà bán nước: “Dạo này có gì hay không mợ?”. Bà ta bảo: “Tuần trước ở có một thằng bị chém…”. Một thanh niên khác bảo: “Thật không, mợ kể đi, dạo này ông bô cắt túi, chẳng đi đâu được”. Tiếng trò chuyện rôm rả, có vài tiếng cười. Lão vẫn đi.
Ngôi nhà năm tầng hiện dần ra. Con chó béc-giê đã ăn no, đang thiu thiu ngủ. Lão đứng trước cánh cổng sắt, im lặng hồi lâu. Ngôi nhà quạnh quẽ, chẳng một bóng người. “Mình lại tới đây làm gì không biết” – Lão lẩm bẩm: “Mình lấy lương hưu rồi, về đi thôi”.
Nắng đã tàn, gió hắt liu riu, vài chiếc lá rụng xoay vòng hồi lâu trên không trước lúc dán hờ xuống mặt đất. Lão vẫn đứng trước cổng và vẫn im lặng.
Một bàn tay khẽ chạm vào vai lão: “Cụ tìm ai” – Lão đứng im hồi lâu rồi quay lại. Một đôi vợ chồng trẻ cùng một đứa bé, trạc mười tuổi. Họ ăn mặc rất sang trọng, hẳn họ là chủ của ngôi nhà.
“Cụ tìm ai vậy!” – Anh chồng nói.
“Tôi… Tôi nhầm nhà thôi”.
“Cụ tìm nhà nào, có khi cháu lại biết” – Cô vợ nói.
Lão lắc đầu, ngoái lại nhìn đứa bé rồi dắt xe đi. Anh chồng nói: “Ông già lạ thật”. Đứa bé ngoái nhìn ra, nói: “Cụ ấy nhìn khổ quá bố mẹ nhỉ?”. Cô vợ bảo: “Trẻ con biết gì mà sướng với khổ”. Anh chồng cười đáp: “Biết đấy, đời là bể khổ”.
Tiếng chìa khóa lách cách, cánh cổng mở ra. Con béc-giê thấy chủ về, mừng rỡ nhỏm dậy, tiếng sủa văng vẳng. Đứa nhỏ mỉm cười, chạy tới xoa đầu con chó, lấy trong túi một khúc xúc xích đặt xuống bát. Tiếng cười nói vọng nhỏ dần rồi mất tăm.
Lão không lên xe mà vẫn dắt bộ. Ngôi nhà sang trọng khuất khỏi con phố, trời đã về chiều nên đường rất vắng. Cách một đoạn lão lại ngoái nhìn phía sau: “Mình lẩn thẩn mất rồi. Phải về nhà thôi, sang con phố khác rồi còn gì”. Lão dắt xe thêm một đoạn, ngoái lại nhìn, thở dài rồi bắt đầu đạp xe.
***
Một sáng, bà già tên Hậu tới mua rau.
“Quê ông lão ở đâu?”.
“Tôi chẳng biết”.
“Quê mình mà cũng không biết ư. Hay từ nhỏ lão đã tha hương”.
“Ai mà chẳng tha hương”.
“Con cái lão đâu cả rồi?”.
“Tôi đã nói là chỉ ở một mình”.
“Lão thật tội!”.
“Thế nào là tội?”.
“Ông đã già, mà chẳng con cái gì, rồi sẽ ra sao đây?”.
“Không con cái sẽ ra sao mà có con cái sẽ ra sao? Rau của bà đây”.
Bà già Hậu nhìn lão, thấy buồn. Lão quay đi. Cánh cửa cũ kĩ đóng lại.
***
Từng viên gạch lát phía góc nhà được gỡ lên. Những ngón tay gầy gò, khô héo bới lớp đất dày phía dưới lên, chiếc hộp gỗ dần hiện ra. Lão mở nó ra, ngắm nghía hồi lâu rồi lại đóng lại. Lão nói “Lương hưu và tiền bán rau mình đã bỏ vào trong đó rồi, sao còn bới lên…”. Lão khe khẽ thở, rồi lão nói: “Mà không ngắm mày thì biết làm gì hơn đây, tao chỉ còn mày thôi”. Lão nhìn vào số tiền trong chiếc hộp, những tờ tiền câm lặng nhìn lão. Một cơn gió chui qua kẽ cửa thổi vào, từng tờ tiền rung rung. Lão nghe thấy tiếng gì đó rất lớn, như tiếng bát đĩa rơi xuống đất, như tiếng bàn ghế đổ, cũng như tiếng quát tháo, khóc lóc nỉ non… Lão vỗ vỗ đầu, đóng chiếc hộp gỗ lại rồi trả nó xuống sâu lớp đất.
Lão lấy chai rượu đặt ở đầu giường và tu một ngụm lớn. Rượu chảy qua cổ họng nóng bỏng, do lão uống gấp quá nên liền bị sặc. Lão ho vài tiếng. Chiếc áo sơ mi cũ lão đang mặc đã năm ngày chưa thay, người ngợm hôi mù. Vài chỗ trên áo rách cả mảng lớn, để lộ lớp da nhăn nheo của tuổi già. Lão ngồi xuống giường, nói: “Sao hôm nay mình lại thèm rượu thế nhỉ, mọi ngày đâu có thế”. Lão cầm chai rượu, lắc lắc: “Chỉ còn một ít thôi, uống bây giờ thì hết mất, nhưng mình thèm quá đi…”.
Lão tu ừng ực, hơi rượu bốc nồng nặc. Thứ âm thanh lộn xộn cùng những hình ảnh chắp vá, nửa như hiện ra, nửa như lẩn khuất mờ đi và lặn vào khoảng trắng trong lão.
***
Những ngôi nhà mái rơm đã ở rất xa rồi, còn tòa nhà sang trọng, xây năm sáu tầng với những lớp kính luôn khép chặt thì từ lâu lắm cũng đã mất rồi. Chúng ta có nhiều ngôi nhà lắm, chỉ cần có tiền thôi, bao nhiêu nhà cũng sẽ thuộc về chúng ta. Tôi, bạn, ông, nó và ngươi sẽ ở đâu trong ngôi nhà đó đây. Phòng khách với những cỗ bàn ghế trang trọng, tầng thượng với cái ban công thoáng đãng và những giò phong lan, hay một gian phòng có cái tủ rượu quý?
Không đâu, sẽ chẳng có điều gì rõ ràng như những suy tưởng của mình, bởi vì ngay cả khi có được cả một tòa lâu đài rộng lớn với hàng tá đầy tớ luôn quỳ mọp phía dưới thì cũng không cách nào có thể gọi đó là nhà mình. Đấy chỉ là một nơi náu thân.
Mồ hôi lão túa ra, rất nhiều. Đêm đã qua rồi nhưng bên ngoài trời hãy còn tối, vì đây là ngoại ô nên sương khá dày và lạnh.
Miệng lão lẩm bẩm: “Bọn mày lấy đi… Có còn gì ở đây đâu…”.
***
Bà già tên Hậu lại đến, lão ra mở cửa. Lão hơi ngỡ ngàng vì lần này bà ta không đi xe đạp. Có một chiếc xe hơi đỗ trước cửa. Xe sơn màu trắng, mui cao và hai chiếc đèn gắn phía trước luôn phát ra những chùm sáng chói lòa. Bà già tên Hậu đứng trước xe.
“Chào ông lão, ông vẫn khỏe chứ”.
“Cả tháng nay chẳng thấy bà đâu. Mà bà ăn mặc đẹp đi dự đám cưới ở đâu vậy”.
“Tôi không đi đám cưới, tôi tới để chào ông thôi”.
“Bà định đi đâu?”.
“Tôi không bán rau nữa”.
“Bà chuyển nghề ư? Chà chà… Vậy hôm nay bà không mua rau à?».
“Tôi sẽ trả tiền ông cho những mớ rau này”.
“Không có tiền nong gì đâu, tôi đã nhổ rau lên đâu. Nhưng bà không bán rau nữa thì làm gì?”.
“Tôi mới bán đất, sắp chuyển lên thành phố sống. Mấy đứa con tôi cũng sẽ dọn lên ở cùng”.
Lão thở dài, vỗ vỗ trán: “Ông Trời rõ hay trêu ngươi…”.
“Ai rồi cũng sẽ tới vận thôi”.
“Không đâu, tôi không nói thế. Chẳng hay ho gì vận số. Trời không hào phóng thế đâu”.
Bà già tên Hậu nhìn lão: “Ông lão có định chuyển đi đâu không?”.
Lão lắc đầu.
Bà già Hậu lấy một tờ giấy, ghi vài dòng rồi nhét vào tay lão: “Đây, địa chỉ nhà tôi. Nếu có dịp đi ngang, mời ông ghé vào chơi”.
Bà lão lên xe. Cửa xe đóng lại. Xe lăn bánh rồi phóng vút đi.
Lão cầm tờ giấy, tay run run. Trên tờ giấy con con ghi: Vũ Thị Hậu… Số nhà… Đường… Điện thoại…
Lão nhìn mãi tờ giấy, đứng một lúc lâu rồi mới vào nhà.
***
Lão lấy chiếc hộp gỗ lên rồi mở nắp ra. Những tờ tiền xanh đỏ hiện lên. Lão thở dài: “Tao chỉ còn mày, chỉ còn mày…”.
Lão đặt tay vào tờ tiền. Bề mặt tiền trơn nhẵn và lạnh. Ngón tay lão trơn, rơi vèo xuống. Những con số câm lặng nhìn lão.
Trời lại gió, lão lạnh. Bệnh thấp khớp lại trở chứng. “Uống chút rượu thôi” – Lão nói. Căn nhà bốn bề vắng teo, cửa sổ từ lâu vẫn chốt chặt còn cửa ra vào thì từ lúc vào phòng lão đã khóa lại.
Lão mở chai rượu và bắt đầu uống. Chiếc hộp gỗ vẫn ở kia, cơn gió thổi qua khiến một vài tờ tiền bay khỏi hộp, màu xanh đỏ uốn éo trước mắt lão.
“Tao còn mình mày… Mình mày…”. Tiếng lẩm bẩm quẩn quanh, lặp đi lặp lại trong căn phòng.
Lão ngủ li bì hai ngày. Cơ thể lão mỏi nhừ và tưởng như rã rời cả ra. Chai rượu vẫn đặt phía đầu giường, ngả nghiêng. Khi uống, lão quên chưa đậy nút nên rượu bên trong đã chảy hết.
Khắp phòng mùi rượu nồng nặc. Căn nhà khép kín nhưng qua những kẽ hở ở ô cửa, lão biết trời đã hửng sáng. Lão nhổm dậy, vỗ vỗ mặt cho tỉnh táo rồi lấy chùm chìa khóa mở cửa.
Mặt trời đã ló rạng, nắng trải đều xuống khoảng sân. Lão ra ô ruộng, những khóm bắp cải mập mạp và trắng muốt.
Vòi nước được vặn ra, lão múc đầy một xô rồi ra ruộng, múc từng gáo tưới xuống luống bắp cải. Thấy đám bắp cải đã được tắm táp kĩ càng, lão cất xô đi rồi trở vào nhà.
Lão ngồi rất lâu trong buồng, cánh cửa chưa đóng lại, còn he hé. “Ái chà, sao bà già này trễ thế nhỉ. Đã gần năm rưỡi rồi”.
Lão đun nước, ngâm mỳ ăn. Có lẽ lão đã uống khá nhiều rượu nên thấy đắng miệng. Sợi mỳ nóng hổi ăn không vào.
Có tiếng cành cạnh phía ngoài cửa. Lão ngồi dậy, bỏ bát mỳ đấy và nói lớn: “Đợi ở đó, tôi ra ngay đây”.
Không có ai ở ngoài. Lão ngó quanh ngó quẩn vẫn không thấy gì. Đường quốc lộ dẫn vào thành phố không một bóng người. Rặng bạch đàn rủ cành. Mấy cánh bướm vờn nhau rồi ngủ trên một bông hoa ven đường.
Lão đứng ngoài cửa một lúc lâu, rồi lẩm bẩm: “Mình quên mất. Bà già kia đã thôi bán rau rồi… Mình lẩn thẩn quá đi…”.
Lão quay vào, đóng cửa lại.
***
Đã đến ngày lĩnh lương hưu. Hôm nay là thứ sáu, vẫn chưa phải cuối tuần nên đường rất đông, lão phải đi từ sớm vì gạo lão đã ăn hết, mỳ tôm cũng không còn gói nào. Lão mặc thêm áo khoác vì trời đang trở gió, rất có thể tầm chiều tối sẽ có gió mùa Đông Bắc.
Lão khóa cửa lại rồi dắt xe đi. Đã lâu rồi lão không trồng rau, vụ rau lần trước lão quên không thu hoạch. Đất ở ruộng khô và những trái bắp cải đã teo tóp lại. Cả tháng nay lão thường xuyên phải lên thành phố để mua thức ăn. Lão không mua nhiều, tiền ăn cả ngày chỉ mất ba chục. Thịt lão rất ngấy, tôm thì đắt nên lão không mua, chủ yếu lão mua chút rau và khúc cá. Tính lão rất khó nên phải dạo qua vài chợ mới mua được thứ ưng ý.
“Bây giờ ngày nào cũng đi chợ, nhưng may là mình không ăn mỳ gói nữa nên cũng đỡ được chút ít” – Lão vừa dắt xe vừa lẩm bẩm.
Bên vệ đường có một quán bún riêu dọc mùng. Mùi bún thơm phức ghìm chân lão. Quán vẫn còn vắng, nhìn vào nồi nước dùng lão thấy đã là nước giữa nồi, hương vị sẽ đậm đà hơn. Lão hãy còn no nhưng mùi thơm của bát bún đã khiến nước miếng lão ứa ra. “Mình mấy năm nay chẳng ăn vặt, mà quán này có tiếng ngon”.
Lão dựng xe. Bà chủ quán gọi lão vào. Lão nhìn quán bún hồi lâu rồi xua tay. Vừa đạp xe lão vừa nói: “Mình già rồi, cũng chẳng nên ăn vặt”.
Đài phát thanh báo “Bây giờ là chín giờ”.
Những chiếc xe phóng vùn vụt trên đường, mũ bảo hiểm và khẩu trang che giấu mọi gương mặt.
Đã chín giờ hơn, nắng bắt đầu lên. Nắng chưa gắt, cũng không hanh mà chỉ le lói, nhợt nhạt chút sắc vàng mỏng manh. Từ đầu đường, ngôi nhà sang trọng bốn tầng kiến trúc theo kiểu cổ điển đã hiện ra. Ngôi nhà mới sơn lại. Cả con phố ngoài các cửa hàng bán đồ điện tử, quán cà phê, thì chỉ duy nhất còn có ngôi nhà này. Vài căn hộ nhỏ quanh đó đã dọn đi hết, hoặc đã thành một phần của ngôi nhà to lớn.
Lão nhìn ra hướng khác, quay xe đi. Đoạn đường dài hướng tới cuối phố, nơi có ngôi nhà tiện nghi kia thu hẹp theo đường xe đạp. Đoạn đường ngắn dần. Cánh cổng sắt đen nhẻm câm lặng hiện ra và lão buộc phải phanh lại. Lão xuống xe, dựng ở trước cổng. Ngôi nhà này rất lớn, có nhiều gian buồng nhưng nhìn vẫn rất quạnh quẽ. Con béc-giê hung dữ vẫn đang ngái ngủ. Con vật trông gầy đi, hẳn đã lâu rồi nó đã chưa có gì bỏ bụn. Lão nhìn thấy cái bát sứ đặt cạnh chuồng nó vẫn còn những hạt cơm đã khô đanh lại.
Tai lão lờ mờ nghe thấy tiếng cãi vã ở phòng khách bên dưới. Có cả tiếng loảng xoảng, một tiếng động nào đó rất to vang lên, sau đó có một thứ to lớn ngã bịch xuống.
Lão nắm lấy song sắt. Chấn song lạnh và chắc như cổng nhà ngục. Tiếng động bên trong lớn dần. Có tiếng khóc nghẽo nghẹt đâu đó.
Con béc-giê thấy người lạ liền chồm dậy và bắt đầu sủa. Con chó hung hãn nhìn lão, những cái răng sắc bén nhe ra.
Bên bậu cửa, lão thoáng thấy một người già cả ngồi, hai tay ôm mặt. Không ai để mắt tới bóng người bên cửa sổ. Lão thấy muối khóe miệng. Mắt lão mờ dần. Tiếng cãi vã ồn ào, tiếng khóc ồn ào, tiếng chó sủa cũng ồn ào.
Tay lão nắm chặt chấn song. Con béc-giê giằng đứt được sợi xích, nhảy bổ về phía song cửa. Một va chạm đủ mạnh để lão ngã ngửa ra. Con béc-giê không sủa nữa.
Nó đang ngấu nghiến thứ gì đấy.
***
Chiếc xe đạp vẫn dựng ở kia, là phương tiện duy nhất để lão trở về nhà. Lão đạp xe đi.
Một bên tay lão run run, nắm tay không đủ năm ngón.
Máu vẫn xối ộc. Mắt lão mờ hơn, tay lái chuệnh choạng.
Một cái quành xe không kịp phanh, suýt đâm vào người đi đường. Tiếng chửi “Đ.M. thằng già”.
Xe đạp chậm hẳn lại. Lão vẫn ngó ngiêng, lẩm bẩm: “Mình lẩn thẩn rồi… Về nhà đi thôi…”.
Một tờ giấy nhỏ xíu rơi khỏi bàn tay nắm hờ. Máu dính nhoe nhoét vào giấy. Trong giấy, máu ướt đã nhòe hết chữ.
Giờ tan tầm, đường bắt đầu tắc. Hàng chục chiếc xe kẹt lại một chỗ, những chiếc mũ bảo hiểm tròn láng, xếp dài con đường nom như những cái sọ người.
***
Nhiều năm sau, người ta tìm thấy ở ngoại ô một căn nhà bỏ hoang. Trong nhà, ngoài cái giường cũ kĩ, cái tủ gãy cánh thì còn rất nhiều tiền. Cả chẵn, cả lẻ, tờ bị xé rách nát, tờ bị xé nửa, tờ vò tròn, tờ còn mới nguyên…
Quanh nhà như bãi chiến trường. Cửa chính, cửa sổ đều toang mở. Mọi công tắc đều ở chế độ on nhưng chẳng sáng nổi, đèn đóm đã cháy hoặc bị cắt bởi những hóa đơn chưa thanh toán nhiều năm.
Không ai biết tung tích chủ ngôi nhà. Chỉ một số ít người biết, nơi đây từng có một ông già sống một mình…
 

1 nhận xét:

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...