Đồng cốt và múa hầu đồng là những
hoạt động tâm linh quen thuộc mỗi dịp đầu năm mới, thu hút sự tham gia
của một lượng lớn con nhang đệ tử. Nhưng nguồn gốc và giá trị thực sự
của hoạt động này vẫn là một điều bị lầm tưởng lâu nay.
Tương
truyền, Hoàng Đế sáng tạo ra nhạc vũ “Vân môn đại quyển” để tế Trời.
Sau này vua Nghiêu sáng tác khúc “Đại hàm”, vua Thuấn sáng tác khúc “Đại
thiều”, vua Vũ sáng tác khúc “Đại hạ”, vua Thang nhà Thương sáng tác
khúc “Đại hoạch”, Vũ Vương nhà Chu sáng tác khúc “Đại vũ”.
Trên đây là 6 bài nhạc vũ nổi tiếng thời thượng cổ, trong Chu Lễ
gọi là “Lục đại nhạc vũ”. Con em quý tộc đời Chu đến tuổi nhất định đều
phải học 6 bài nhạc vũ này, là môn học bắt buộc. Sáu khúc nhạc vũ dùng
để thờ tế, trong đó “Vân môn đại quyển” tế trời, “Đại hàm” tế đất, “Đại
thiều” tế tứ vọng, “Đại hạ” tế núi sông, “Đại hoạch” cúng bà tổ tiên,
“Đại vũ” cúng ông tổ tiên.
Thuở đầu và cực thịnh của đồng cốt tích cực
Chu Lễ
chép rằng: “Khi tế lễ, diễn tấu nhạc vũ Lục Đại, diễn tấu một lượt, thì
cảm ứng với loài chim và Thần sông hồ đến… Diễn tấu sáu lượt, thì cảm
ứng và vời Long Lân Quy Phượng và Thiên Thần đến”.
Và:
“Vào
ngày đông chí, ở một gò tròn ngoài đồng phía nam đô thành (Nam Giao)
cùng diễn tấu, khi diễn tấu đến lượt thứ sáu, Thiên Thần tới tấp giáng
lâm, lúc đó có thể làm lễ tế các Thiên Thần”.
Trong
“Quốc Ngữ” có chép: “Thời viễn cổ chỉ có người có tinh thần chuyên chú,
thông minh trí huệ, quang minh thánh khiết, thuần khiết cao thượng, thì
Thần minh mới giáng xuống thân anh ta, để anh ta trở thành môi giới câu
thông giữa người với Thần. Người như thế này, nam gọi là “Ông đồng”, nữ
gọi là “Bà cốt”.
Theo những ghi chép
kể trên, khi tế lễ thời kỳ đầu triều Chu, diễn tấu nhạc vũ thực sự có
thể cảm ứng với Thần linh giáng thế, đích thân đến nhận lễ tế, đây cũng
là sức mạnh nhạc vũ thời kỳ đầu có thông tới Thần. Nhạc vũ do có thể
thông Thần, giáng Thần, nên đương thời dùng rất nhiều để tế lễ, thế là
phát triển thành múa hầu đồng, hay gọi là múa “đồng cốt”.
Từ
tư liệu chữ giáp cốt triều Thương để lại, ghi chép về múa hầu đồng có
rất nhiều. Đặc biệt là khi tế lễ và cầu mưa, múa hầu đồng dường như
không thể thiếu. Ví dụ: “Năm Canh Dần bói, năm Tân Mão múa đãi, có mưa.
Năm Nhâm Thìn múa đãi, có mưa. Năm Canh Dần bói, năm Quý Tỵ múa đãi, có
mưa. Năm Canh Dần bói, năm Giáp Ngọ múa đãi, có mưa”.
“Đồng
cốt” thời kỳ thượng cổ, địa vị xã hội của họ rất cao, được mọi người
kính ngưỡng, rất nhiều người đồng thời làm thủ lĩnh bộ lạc. Đồng cốt
thời thượng cổ đại đa số đều có thần thông, có năng lực và trí huệ siêu
phàm, có thể câu thông với Thần, là người nói thay Thần ở chốn nhân
gian, đã phát huy tác dụng trọng đại trong đời sống của bộ tộc và quốc
gia.
Đời Thương là thời kỳ đỉnh thịnh
của đồng cốt, được gọi là “Vu giáo” vì nó đã phát triển đến mức gần như
một tôn giáo. Các ông đồng còn có nhiệm vụ chép sử, giữ chức vụ trọng
yếu trong triều đình, vừa có nhiệm vụ về tôn giáo (thông với thần minh)
vừa có nhiệm vụ chính trị. Một số ông đồng có tên tuổi được cổ tịch đề
cập như Y Doãn (tức là A Hành), Y Trắc (con trai của Y Doãn), Vu Hàm và
con trai là Vu Hiền, Cam Bàn.
Đồng cốt tích cực đi vào suy thoái, biến tướng thành đồng cốt tiêu cực
Dần
dần, cùng với sự phát triển của văn minh vật chất, dục vọng của nhân
loại biến đổi ngày càng lớn lên, tâm hồn không còn giản đơn thuần khiết
nữa, cái tâm con người trong xã hội cũng bắt đầu trở lên phức tạp và dơ
bẩn. Thế là con người bắt đầu truy cầu hưởng thụ nhục dục, chạy theo lợi
ích vật chất, năng lượng tinh thần càng ngày càng yếu, càng ngày càng
rời xa Thần, đi ngược với tự nhiên và Đại Đạo, Thần dần dần ẩn giấu tung
tích.
Sách Quản Tử – Khinh Trọng Giáp
viết: “Trước kia thời Hạ Kiệt, trong cung có nuôi ba vạn nữ nhạc, sáng
sớm mỗi ngày hát ở cửa Đoan Môn, tiếng hát múa vang xa, người đi đường
đều nghe thấy, bọn nữ nhạc đều ăn mặc xa hoa”.
Có
thể thấy, vào cuối thời nhà Hạ, “phong khí đồng cốt” đã rất thịnh rồi.
Khi nhạc vũ sa đọa trở thành công cụ để con người phóng túng hưởng lạc,
thì chức năng câu thông với Thần của âm nhạc cũng dần dần mất đi trong
lịch sử.
Khi con người đã phóng túng
tư dục, họ dùng nhạc để thỏa mãn ham muốn của bản thân. Đồng cốt không
giữ được thân mình trong sạch, thuần khiết, cao thượng nữa, nên không
thể câu thông với Thần linh, thân thể dơ bẩn của họ thì Thần linh không
giáng hạ xuống nữa.
Nhưng vì cái tâm
danh lợi, vì để giữ danh tiếng, giữ địa vị, được mọi người tôn kính,
được bổng lộc hậu đãi, họ đã giả thần giả quỷ, ăn nói lung tung, lừa
người lừa mình, cuối cùng chiêu mời các linh thể tầng thấp. Từ đó họ
chuyển sang hành nghề bói toán, cầu cúng, bùa chú, chữa bệnh, và một số
thuật loại tiểu đạo khác.
Ngoài công
việc chính yếu là bốc phệ, các đồng dần dần bị phân hoá trên nhiều lãnh
vực khác nhau như thiên văn, y học, tôn giáo, chính trị… Một số đồng cốt
lại có nguyện vọng truy cầu sự khang kiện và trường thọ nên rất chú
trọng đến y dược và luyện dưỡng. Những đồng cốt này dần dần tách biệt
với vu giáo và hình thành một hệ thống độc lập và được gọi là phương sĩ,
thuật sỹ. Phương pháp luyện dưỡng của họ được gọi là phương thuật, để
phân biệt với vu thuật của các đồng cốt.
Đến
thời Tần Thủy Hoàng, các phương sỹ lợi dung Tần Thủy Hoàng say mê tu
Đạo, thích thuật tu luyện Thần Tiên để lừa bịp. Bản thân Thủy Hoàng tu
luyện, dưỡng sinh, nên đối với phương thuật và thuật sỹ, phương thuật
đều rất tôn trọng, thường cùng với họ thảo luận về lý Thần Tiên, Chân
Nhân, tu luyện trường sinh. Một số phương sỹ, thuật sỹ như bọn Hầu Sinh,
Lư Sinh, lấy danh nghĩa Tần Thủy Hoàng thái dược luyện đan, tìm phép
Tiên, đã vung phí tiền tài, nhiều lần lừa dối.
Đứng
đầu bọn phương sỹ, thuật sỹ là Hầu Sinh, Lư Sinh, đến khi thấy thuật
lừa bịp bị bại lộ, bí mật mưu đồ bỏ chạy lưu vong. Trước khi bỏ trốn,
trong Sử Ký có chép, bọn Hầu Sinh, Lư Sinh đã phỉ báng Tần Thủy
Hoàng. Tần Thủy Hoàng biết chuyện nổi giận: “Bọn Lư Sinh ta ban ân rất
hậu, nay lại phỉ báng ta, nói ta không có đức. Chư sinh ở Hàm Dương rất
nhiều, ta cho người đi tra xét, xem có kẻ nào dùng lời gian xảo mê hoặc
làm loạn dân đen”. Thế là sai ngự sử xét hỏi các chư sinh, chư sinh cáo
giác, tự loại trừ trên 460 người vi phạm lệnh cấm, tất cả đều bị chôn ở
Hàm Dương, để cho thiên hạ đều biết, răn đe hậu nhân (Sử ký – Tần Thủy Hoàng bản kỷ).
Từ
thời Tần Thủy Hoàng trở đi, các phương sỹ thuật sỹ không còn đất tham
gia chính sự nữa, còn đồng cốt thì vẫn lưu truyền trong dân gian dưới
dạng tiểu đạo tiểu thuật như bói toán, phong thủy, chữa bệnh bằng cầu
cúng, mẹo, bùa chú, đốt vàng mã, đốt hương…
Một
trong những hình thức của đồng cốt còn tồn tại là múa hầu đồng hay đồng
bóng. Tức là vẫn giữ hình thức ban đầu của đồng cốt, nhưng bản chất đã
hoàn toàn thay đổi. Vì cho đến nay đồng cốt không có thân thể và tâm hồn
thuần khiết, nên các Thần không giáng nhập vào họ nữa, chỉ còn các linh
thể tầng thấp nhập vào. Do đó họ cũng có thể biết được một chút vận
mệnh cá nhân, nên dùng hình thức lên đồng, hầu đồng để hành nghề bói
toán.
Hát chầu văn và múa hầu đồng
Những
người theo đồng bóng tin rằng, thế giới thần linh theo tín ngưỡng đồng
bóng rất đa dạng. Trên hết là Ngọc Hoàng Thượng Đế, kế đến Tam tòa Thánh
mẫu (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải), dưới nữa là các
Quan và thấp hơn là các Cậu và các Cô, v.v. Khi lên đồng, vị thần linh
nào “ngự” thì xưng danh tánh, biểu lộ tính cách và phán dạy. Các vị thần
linh này thường thể hiện những tính cách bất thường như chợt vui, chợt
buồn, đến đi bất chợt.
Để làm nên một
buổi nhảy đồng thần bí, một thành phần không thể thiếu được là đoàn hát
văn với đầy đủ đàn, sáo, trống, nhị. Dưới tiếng nhạc hối hả và giọng hát
kể lể, cô đồng môi đỏ, mi dài xuất hiện trong trang phục trắng toát từ
chân tới đầu. Hai người hầu nhanh chóng dâng lên cô một bên tay hương,
một bên tay áo, khoác lên người cô bộ quần áo đàn bà màu đỏ may khá cầu
kỳ, ấn vào tay cô bó hương, trùm tấm khăn lên đầu cô.
Trong
suốt khoảng 3 tiếng đồng hồ lên đồng, cô đồng đã thay 13 bộ quần áo,
phát 13 mâm lễ và cũng từng ấy lần nhảy múa quay cuồng, châm đến 4 bao
thuốc để hút và phát lộc. Có một điều rất lạ là toàn bộ con nhang, cô
đồng ai ai cũng hút được thuốc lá bất kể là đàn ông hay đàn bà. Con
nhang phần lớn là những người làm ăn buôn bán, còn có cả những người
giàu có, quyền chức.
Đồng cốt ở nước
ta có hai nguồn gốc, bản địa và du nhập vào theo quá trình đô hộ của nhà
Hán. Nhưng về bản chất thì đồng cốt bản địa (các thầy mo, thầy phù
thủy) và đồng cốt du nhập (thầy cúng, phong thủy, thầy pháp, thầy bói)
đều có đặc điểm giống nhau, họ thờ cúng các linh thể tầng thấp.
Rất
nhiều người cho rằng họ thờ cúng Thần này, Thánh kia. Nhưng như đã nói ở
trên, khi các đồng cốt không còn thuần khiết trong sạch như thuở sơ
khai nữa thì các Thần, Thánh đã từ lâu không giáng nhập vào họ nữa, chỉ
còn các linh thể tầng thấp mà thôi.
Chúng
ta có thể thấy hầu hết các buổi lên đồng đều là các “Cô, Cậu” nhập
đồng, rồi phán. Trong đó, có một số là giả thần giả quỷ, phán bừa, nói
dựa, mục đích là kiếm tiền từ các con nhang. Còn một số “Cô, Cậu” có khả
năng nói đúng được một số điều như người thân đã chết của con nhang,
tiền vận hậu vận của con nhang.
Những
trường hợp “Cô, Cậu” này bản thân họ cũng không biết là họ bị các linh
thể tầng thấp nhập vào. Do họ có cái tâm truy cầu danh lợi, và họ lập
điện thờ cúng về danh nghĩa là Thần, Thánh, nhưng thực tế, họ không đủ
đức, đủ thanh khiết để Thần Thánh đế ngự, nên chỉ có linh thể tầng thấp,
tà ma loạn quỷ đến nhập vào mà thôi.
Những
đồng cốt thật và giả đang hành nghề, và các con nhang đệ tử theo hầu
đồng, có lẽ họ thấy cả hai cùng có lợi: đồng cốt kiếm được tiền, con
nhang giải tỏa được tâm lý. Còn có linh nghiệm hay không thì còn phải
xét. Cho dù có linh nghiệm đi chăng nữa thì cái đợi chờ họ cũng không
phải điều tốt lành. Những linh thể tầng thấp kia sẽ lấy đi khí tinh hoa
của con người, lấy đi đức, và cấp nghiệp cho họ. Khi mất khí tinh hoa,
khi mất đức và tăng nghiệp thì cái chờ đợi họ sẽ là bệnh tật, đoản thọ,
tai nạn của họ hoặc của người nhà.
Ở
nước ta, một bộ phận đồng cốt chuyên dùng hát chầu văn thực hiện các
nghi thức lên đồng để câu thông với “Thần Thánh”. Về thực chất là câu
thông với các linh thể tầng thấp. Có một số đồng cốt thực hiện hoàn toàn
khách quan, cũng không vì mục đích tư lợi, là do họ học, họ luyện theo
phương thức này mà thôi, họ cũng không biết là linh thể tầng thấp, mà
vẫn nghĩ là “Thần, Thánh” nhập vào. Còn một số đồng cốt coi là phương
thức phát tài kiếm tiền.
Do sử dụng
hát chầu văn nên nhiều người đánh đồng chầu văn với đồng bóng. Kỳ thực
chầu văn là hình thức nhạc vũ độc lập, bị lợi dụng dùng trong múa hầu
đồng mà thôi. Hát văn là môn nghệ thuật cổ xưa của người Việt, mang đậm
nét văn hóa cung đình và đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm cùng lịch
sử.
Theo ghi chép lịch sử thì hát văn có từ lâu đời, là loại hình ra đời sớm hơn so với các loại hình dân ca khác. Trong cuốn Kiến văn tiểu lục, nhà bác học Lê Quý Đôn có ghi: “Thời Trần (1225–1400) có lối hát trước mặt Đế Vương, gọi là hát Chầu”.
Như
vậy thủa xưa, hát văn được sử dụng như một loại hình nghệ thuật chốn
cung đình. Do chiến tranh loạn lạc liên miên, các tư liệu ghi chép đã
thất lạc, nên hiện nay khó mà tìm được nguồn gốc ban đầu của hát chầu
văn cũng như quá trình phát triển của nó, và bắt đầu từ khi nào nó được
dùng vào hát hầu đồng.
Từ đó hát văn
(chầu văn) bị chụp cho cái mũ mê tín dị đoan của đồng bóng “giả Thần giả
quỷ”. Loại bỏ các nhân tố đồng bóng giả Thần giả quỷ, chầu văn xứng
đáng là một nghệ thuật cao cấp, trang nhã, mượt mà của dân tộc, xứng
đáng là di sản văn hóa thế giới, rất đáng được trân trọng, bảo tồn và
phát triển.
Nam Phương (daikynguyen.tv)
Bài viết rất ý nghĩa
Trả lờiXóa