QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN MIẾU VŨ 關聖帝君廟宇 là nhóm từ chỉ chung các đền miếu thờ ông Quan Vũ 關羽 thời Tam Quốc.
MIẾU VŨ 廟宇 là từ chỉ chung cho các "đình chùa miếu mạo"; nơi thờ cúng
thần linh tiên phật. Nghĩa xưa MIẾU VŨ là nơi vua quan triều kiến hội
họp; còn được gọi là LANG MIẾU 廊廟 hay TRIỀU ĐÌNH 朝廷, như trong bài hát
nói Kẻ Sĩ của cụ Nguyễn Công Trứ có câu :
Trong LANG MIẾU ra tài lương đống.
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương
QUAN VŨ 關羽 (khoảng 162-220), tự là Vân Trường 雲長, bổn tự là Trường
Sinh 長生, vì có bộ râu năm chòm dài và đẹp, nên mọi người gọi ông là Mỹ
Nhiễm Công 美髯公, có nghĩa là "Ông râu đẹp". Ông được sinh ra ở đất Giải
Lương, Hà Đông Ty Lệ, thuộc Bồ Châu xưa (tỉnh Sơn Tây ngày nay). Ông là
một danh tướng ở cuối đời Đông Hán, cùng với Lưu Bị, Trương Phi kết bái
thành sinh tử chi giao, giúp cho Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Năm Kiến
An thứ tư (199) được vua phong là Hán Thọ Đình Hầu. Trong trận chiến
Xích Bích đã tha cho Tào Tháo ở Huê Dung Đạo. Khi Lưu Bị đem quân vào
Ích Châu thì Quan Vũ trấn giữ Kinh Châu. Năm Kiến An thứ 24 đã bắt Vu
Cấm và trảm Bàng Đức ở Phàn Thành. Năm sau, Đông Ngô bội ước, sai Lục
Tốn và Lữ Mông tấn công Kinh Châu. Quan Vũ trước sau thọ địch, bại binh
và bị giết.
QUAN VŨ chẳng những là một danh tướng mà còn
là một con người trung can nghĩa đãm, rất trọng nghĩa khí nên được tôn
sùng trong nền văn hóa Trung Hoa cổ xưa vốn chịu nhiều ảnh hưởng với tư
tưởng Khổng Mạnh, được dân chúng lập miếu tôn thờ như một vị thần linh
với đầy đủ trung hiếu tiết nghĩa và truyền cả ra những nước láng giềng
chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa như Nhựt Bổn, Triều Tiên (Hàn
Quốc), Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai... QUAN VŨ được dân chúng tôn xưng là
Quan Công 關公, Quan Lão Gia 關老爺 và còn được các đời vua chúa của các
triều đại truy phong tước hiệu Thánh Đế, nên còn được gọi là Quan Đế 關帝,
Quan Thánh 關聖, Quan Thánh Đế 關聖帝, Quan Thánh Đế Quân 關聖帝君... Còn Đạo
giáo thì tôn xưng là Hiệp Thiên Đại Đế 協天大帝... nên gọi miếu thờ là Hiệp
Thiên Cung 協天宮. Phật giáo thì xem như là một vị thần hộ pháp, nên tôn
xưng là Già Lam Bồ Tát 伽藍菩薩. Nho giáo vì muốn giáo dục lòng trung nghĩa
nên gọi là Võ Thánh 武聖, đưa lên ngang hàng với Đức Khổng Phu Tử là Văn
Thánh 文聖. Giới giang hồ bình dân thì căn cứ vào Đào Viên Tam Kết Nghĩa
桃園三結義 mà gọi một cách thân thương là Quan Nhị Gia 關二爺, Quan Nhị Ca
關二哥...
Chùa Quan Thánh ở Mỹ, Việt Nam, Thái Lan, Nhựt Bổn, Đài Loan...
Một đôi liễn nữa cũng rất thường thấy ở các Quan Thánh Miếu là :
Mời Xem :
Cho đến hiện nay, chẳng những khắp nơi trên đất nước Trung Hoa có
miếu thờ Quan Thánh Đế Quân mà tất cả các nơi trên thế giới, nơi nào có
Hoa Kiều đến lập nghiệp làm ăn sinh sống là nơi đó có Miếu thờ Quan
Thánh ngay. Theo thống kê chưa chính xác của một ký giả ở New-York có trên 3 vạn miếu thờ Quan Thánh của hơn 30 quốc gia trên thế giới, chỉ riêng Nhật Bản và vùng Mã Lai thì đã có trên một ngàn miếu thờ Quan Thánh rồi. Còn ở
miền Nam Việt Nam ta, từ cố đô Huế đến Hội An Đà Nẵng, Nha Trang... cho
đến Sài gòn Chợ Lớn và Lục tỉnh, đến tận Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau... đều có miếu thờ Quan Công và được gọi một cách thân thương gần
gũi là CHÙA ÔNG; Vì thế mà các câu đối ở trước các miếu thờ rất đa dạng,
muôn màu muôn vẻ. Thông thường nhất như những câu sau đây :
志在春秋功在漢; Chí tại xuân thu công tại Hán;
忠同日月義同天。 Trung đồng nhựt nguyệt nghĩa đồng thiên.
Hình ảnh của Quan Vân Trường luôn luôn gắn liền với quyển sách khi ngồi và cây Thanh long yển nguyệt
đao khi đứng. Quyển sách đó chính là quyển kinh Xuân Thu 春秋經, một
trong Tứ Thư Ngũ Kinh (Ngũ Kinh là : Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh
Lễ Nhạc và Kinh Xuân Thu). Hình ảnh cầm quyển Kinh Xuân Thu của Quan
Công chỉ chí hướng cao xa của ông, luôn luôn trao dồi học tập những tấm
gương của người xưa trong thời Xuân Thu Chiến Quốc để phục vụ cho đất
nước. Nên câu đối trên có nghĩa :
- Chí hướng cao xa như ở trong thời Xuân Thu, còn chiến công cơ nghiệp thì đang ở đời Hán.
- Lòng trung thành vằng vặc như hai vầng nhựt nguyệt, còn nghĩa khí thì cao vút tựa trời xanh.
* Diễn Nôm :
Chí ở Xuân Thu công ở Hán,
Trung cùng nhựt nguyệt nghĩa cùng trời !
Một đôi liễn nữa cũng rất thường thấy ở các Quan Thánh Miếu là :
千秋義勇無雙士, Thiên thu nghĩa dũng vô song sĩ,
萬古精忠第一人。 Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhơn.
Có nghĩa :
Cái nghĩa khí và vũ dũng ngàn năm không có được hai người,
Lòng trung thành tuyệt đối muôn đời là người số một duy nhất.
* Diễn Nôm :
Ngàn năm nghĩa dũng không hai kẻ,
Muôn kiếp lòng trung chỉ một người !
Hai người đứng hai bên Quan Công, người râu rìa mặt đen là Châu Thương cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao, người mặt trắng đẹp trai là Quan Bình, tay bưng cái ấn Hớn Thọ Đình Hầu. Theo dị đoan thì lưỡi của Thanh Long Yển Nguyệt Đao phải xây về hướng nước ròng, tức là phải chém ngược dòng nước để ngăn chặn những ác thần.
Đôi liễn nầy có xuất xứ ở Hồi thứ 77 trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa tả lại việc Quan Vũ sau khi chết được phong thần và thường hiển thánh đề phù trợ cho dân lành. Câu đối có nghĩa như sau :
Cũng cùng diễn một ý, nhưng câu đối sau đây được tìm thấy trước cổng "Nhị Thánh Từ 二聖祠"(Từ miếu thờ 2 ông thánh) của huyện Phú Dương tỉnh Chiết Giang lại súc tích và hay hơn nhiều :
Trong lịch sử tín ngưỡng thế giới chưa có "Ông Thần" nào được phong tặng, truy phong và được dân chúng lập miếu để thờ phượng nhiều như là QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN cả !
Còn sau đây xin được giới thiệu câu đối nổi tiếng trước cửa miếu
thờ Quan Thánh ở Ngọc Tuyền Sơn nơi Quan Công hiển thánh :
赤面秉赤心,騎赤兔追風,馳驅時無忘赤帝;
Xích diện bỉnh xích tâm, kỵ Xích thố truy phong, trì khu thời vô vong Xích đế;
青燈觀青史,仗青龍偃月,隱微處不愧青天.
Thanh đăng quan thanh sử, trượng thanh long yển nguyệt, ẩn vi xứ bất quý thanh thiên.
Đôi liễn nầy có xuất xứ ở Hồi thứ 77 trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa tả lại việc Quan Vũ sau khi chết được phong thần và thường hiển thánh đề phù trợ cho dân lành. Câu đối có nghĩa như sau :
* Xích
Diện 赤面 là Mặt đỏ, chỉ ngoại mạo của Quan Công; Xích Tâm 赤心 không phải
là trái tim đỏ, mà là trái tim không che đậy, ý chỉ một tấm lòng trung
thành thẳng thắn; Xích Thố Truy Phong 赤兔追風 là tên của con ngựa Quan Công
cởi chạy nhanh như gió; Trì Khu Thời 馳驅時 là Khi cởi ngựa chạy ngược
chạy xuôi để chiến đấu (hay làm việc phục vụ) cho ai đó; Xích Đế 赤帝 là
từ chỉ chung các vua từ thời bàng cổ của Trung Hoa như Viêm Đế, Thần
Nông, Chúc Dung... Khi khởi nghiệp dựng nên nhà Hán, Hán Cao Tổ Lưu Bang
xưng mình là con cháu của Xích Đế, nên Xích Đế trong câu đối nầy có ý
dùng để chỉ vua nhà Hán. Đây là một cách chơi chữ của La Quán Trung để
dùng cùng lúc 4 chữ XÍCH với 4 nghĩa khác nhau : Mặt đỏ với tấm lòng
son, cởi con ngựa Xích Thố để chinh chiến ngược xuôi nhưng lòng vẫn
không quên vua nhà Hán.
* Thanh Đăng 青燈 là Ngọn
đèn màu xanh trong đêm; Thanh Sử 青史 là Sử xanh, vì ngày xưa khi chưa có
giấy thì chữ nghĩa lưu lại được viết hoặc khắc lên trên những thanh tre
màu xanh; Thanh Long Yển Nguyệt 青龍偃月 là tên của cây đại đao mà Quan
Công sử dụng; Ẩn Vi Xứ 隱微處 là Nơi khuất lấp nhỏ nhặt, ý chỉ nơi nhỏ nhặt
riêng lẻ nhất ở trong lòng, trong ý tưởng; Bất Qúy Thanh Thiên 不愧青天 là
Không thẹn với trời xanh. Vế đối dùng 4 chữ THANH để đối lại 4 chữ XÍCH
của câu trên một cách rất tài tình, lại nêu bật được chí hướng cao xa và
tác phong hiên ngang trong sáng của một bậc đại trượng phu không thẹn
với đời với trời : Trước ngọn đèn xanh đọc sử xanh, sử dụng cây Thanh
Long yển nguyệt đao, lòng không mải mai mờ ám nên cũng chẳng thẹn với
trời xanh. Ý chỉ khi phò nhị tẩu ở nơi Tào Tháo và khi qúa ngũ quan trảm lục tướng, Quan Công luôn luôn giữ lễ với hai người chị dâu và ban đêm ngồi đọc Xuân Thu để tránh tị hiềm dị nghị.
Câu đối trước chùa Quan Thánh ở Bangkok Thái Lan cũng mang sắc thái điệp tự độc đáo như sau :
兄玄德,弟翼德,德兄德弟; Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, đức huynh đức đệ;
友子龍,師臥龍,龍友龍師。 Hữu Tử Long, sư Ngọa Long, long hữu long sư.
Có nghĩa :
- Anh là Huyền Đức (Lưu Bị), em là Dực Đức (Trương Phi), anh cũng có đức mà em
cũng có đức.
- Bạn là Tử Long (Triệu Vân), quân sư là Ngọa Long (Khổng Minh), long là bạn mà
long cũng là sư (SƯ 師 vừa có nghĩa là quân sư, vừa có nghĩa là Thầy).
Câu đối nêu lên tính cách của Quan Công : Kết bái với anh là người
có đức độ và em cũng là người có đức tính; còn quan hệ giao tiếp thì có
bạn là Thường Sơn Triệu Tử Long, tướng giỏi nhất của Lưu Bị đã phò Á
Đẩu vượt khỏi trùng vi 80 vạn quân của Tào Tháo ở Đương Dương Trường Bản và
quân sư là Ngọa Long Tiên Sinh Khổng Minh Gia Cát Lượng đã giúp cho Lưu
Bị cùng với Tào Tháo và Tôn Quyền ở Đông Ngô chia ba thiên hạ và gầy
dựng nên nhà Thục Hán.
Câu đối khéo ở chỗ
dùng tự hiệu của Tử Long và Ngọa Long để đối với tự hiệu của Huyền Đức
và Dực Đức. Nhưng nếu xét về nội dung súc tích thì vẫn còn thua xa câu
đối thờ Quan Công trong Hội Quán Nghĩa Nhuận 義潤會館 ở Quận 5 Sài Gòn Chợ
Lớn đã được cụ Vương Hồng Sển giới thiệu trong quyển "Sài Gòn NămXưa" như sau :
生蒲洲,事豫洲,戰徐洲,守荊洲,萬古神洲有一;
Sanh Bồ Châu, sự Dự Châu, chiến Từ Châu, thủ Kinh Châu, vạn cổ thần châu hữu nhất;
兄玄德,弟翼德,捨龐德,釋孟德,千秋聖德無雙。
Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, xả Bàng Đức, thích Mạnh Đức, thiên thu thánh đức vô song !
* Chú thích :
- Chữ CHÂU 洲 có 3 chấm thủy bên trái, có nghĩa là Bãi sông, là Cù
lao; hiện nay chữ CHÂU nầy có nghĩa là CHÂU LỤC, như Á Châu 亞洲, Âu Châu
歐洲... thông dụng với chữ CHÂU 州 là Châu Quận, là một đơn vị hành chánh, ở
Mỹ là một Tiểu bang, như Tiểu bang Cali gọi là Gia Châu 加州, Tiểu bang
Taxas gọi là Đức Châu 德州... Nên chữ CHÂU trong câu đối có thể viết có ba
chấm Thủy 洲 và không có ba chấm thủy 州 cũng đều được cả !
- THẦN CHÂU 神洲 hay 神州 : là từ nói gọn lại của 4 chữ XÍCH HUYỆN THẦN
CHÂU 赤縣神州 là từ phiếm xưng chỉ chung cho đất nước Trung Hoa cổ xưa.
- DỰ CHÂU 豫洲 là DỰ CHÂU MỤC 豫洲牧 chức vụ khi mới khởi nghiệp của Lưu Bị.
- Chữ HUYNH 兄 và chữ ĐỆ 弟 trong vế đối sau là Động từ, nên HUYNH có nghĩa là "Tôn làm anh" và ĐỆ có nghĩa là "Nhận làm em".
- XẢ 捨 là Buông bỏ, như Vị Quốc Xả Thân 為國捨身 là Vì nước BỎ mình. Trong câu đối XẢ có nghĩa là "vứt đi" là giết chết.
- THÍCH 釋 là THÍCH PHÓNG 釋放, ta nói là Phóng thích, là thả ra, là tha cho.
* Nghĩa câu đối :
- Sanh ra ở đất Bồ Châu, Phụng sự ở đất Dự Châu, chiến đấu ở đất
Từ Châu và Canh giữ ở đất Kinh Châu, từ vạn cổ đến nay đất Thần Châu
rộng lớn nầy chỉ có một ông mà thôi;
- Tôn Huyền Đức
làm anh, nhận Dực Đức làm em, bỏ đi Bàng Đức là tướng giỏi, tha cho Mạnh
Đức để trả ơn xưa, từ ngàn thu đến nay cái Thánh đức của ông không có
người thứ hai dám sánh.
Bốn
"Châu" và bốn "Đức" nêu bật hết những giai đoạn và những mốc chính trong
cuộc đời võ nghiệp của Quan Công và cũng là những cột mốc chính trong
truyện Tam Quốc Chí diễn nghĩa, đồng thời cũng ca ngợi ông là người vượt trội hơn người khác về tài năng và đức độ từ ngàn xưa đến nay hiếm có được người thứ hai.
Để ca tụng một người nào đó, người ta thường hay nói quá sự thật
một chút thì đó cũng là lẽ thường tình; nhưng trong tín ngưỡng để cũng
cố niềm tin vững chắc của quần chúng tín đồ, đôi lúc người ta cũng hay
nói quá lố đi, như phong tặng Quan Công danh hiệu "Võ Thánh 武聖" để nâng
lên ngang hàng với "Văn Thánh 文聖" là đức Khổng Phu Tử thì rõ ràng là
quá đáng quá mức. Như đôi liễn trước một Quan Thánh Miếu ở Đài Loan sau
đây :
孔夫子,關夫子,萬世兩夫子;
Khổng phu tử, Quan phu tử, Vạn thế lưỡng phu tử;
修春秋,讀春秋,千古一春秋。
Tu Xuân Thu, độc Xuân thu, Thiên cổ nhất Xuân thu.
* Chú thích :
- Phu Tử 夫子 : là người đàn ông đáng mặt đàn ông, là bậc thầy.
- Xuân Thu 春秋 : là Kinh Xuân thu, được xem như là quyển Lịch sử đầu tiên của đất nước Trung Hoa xưa.
* Câu đối có nghĩa :
- Khổng phu tử, Quan phu tử, là hai phu tử bậc thầy của muôn đời;
- Soạn Xuân Thu, đọc Xuân Thu, là quyển Xuân Thu của ngàn năm xưa.
Cũng cùng diễn một ý, nhưng câu đối sau đây được tìm thấy trước cổng "Nhị Thánh Từ 二聖祠"(Từ miếu thờ 2 ông thánh) của huyện Phú Dương tỉnh Chiết Giang lại súc tích và hay hơn nhiều :
孔夫子,關夫子,两位夫子,聖德威靈同傳萬世;
Khổng Phu tử, Quan Phu tử, lưỡng vị Phu tử, thánh đức uy linh đồng truyền vạn thế;
著春秋,看春秋,一部春秋,廟堂香火永續千年。
Trước Xuân thu, khán Xuân thu, nhất bộ Xuân thu, miếu đường hương hỏa vĩnh tục thiên niên.
Có nghĩa :
- Khổng Phu tử, Quan Phu tử, cái uy linh thánh đức của hai vị Phu tử nầy đều cùng truyền đến muôn đời;
- Soạn Xuân thu, xem Xuân thu, cái hương hỏa miếu đường về quyển Xuân thu nầy sẽ còn tiếp tục mãi đến ngàn năm sau.
Một đời của QUAN VŨ, QUAN VÂN TRƯỜNG đều sống và chấp hành nghiêm
chỉnh theo "Trung, Nghĩa, Nhân, Dũng, Lễ, Trí, Tín 忠 義 仁 勇 禮 智 信": Hàng
Hán bất hàng Tào, đầu hàng nhà Hán chớ không phải đầu hàng Tào Tháo là
TRUNG; Hoa Dung Đạo tha cho Tào Tháo không bắt là NGHĨA; Trường Sa tha
cho lão tướng Hoàng Trung ngã ngựa là NHÂN;
Đơn đao phó hội, uy hiếp tướng Giang Đông là DŨNG; Chong đèn suốt sáng
đọc Xuân Thu để giữ khoảng cách với nhị tẩu là LỄ; Dùng thủy công dẫn
nước sông Hán Thủy dìm quân Ngụy,
bắt sống Vu Cấm và Bàng Đức là TRÍ; Qúa ngũ quan, trảm lục tướng , phò
nhị tẩu ngàn dặm tìm về với Lưu Bị là TÍN.
Với lòng
trung quân ái quốc, trừ bạo an dân, ân oán phân minh, giữ gìn tôn ti
trật tự, ăn ở có tình nghĩa với bằng hữu và những người chung quanh,
thực hành và giữ đúng theo khuông phép nề nếp của Nho gia, phát huy cái
"Đại Nghĩa Xuân Thu" đến cực điểm nên đã gặt hái được biết bao sắc phong
qua các đời vua chúa của các triều đại và sự chiêm ngưỡng cúng bái ngàn
đời của dân chúng cho mãi đến tận ngày nay.
Để kết thúc bài viết nầy, kính mời cùng đọc câu đối trước QUAN
THÁNH MIẾU ở Thị trấn Bồng Lai, huyện An Khê, tỉnh Phúc Kiến sau đây :
漢封侯,宋封王,清封大帝;
Hán phong Hầu, Tống phong Vương, Thanh phong Đại đế;
儒稱聖,釋稱佛,道稱天尊.
Nho xưng Thánh, Thích xưng Phật, Đạo xưng Thiên tôn.
Có nghĩa :
- Đời Hán được phong Hầu (Hán Thọ Đình Hầu 漢壽亭侯), đời Tống được
phong Vương (Nghĩa Dũng Võ An Vương 義勇武安王), đến đời Thanh được phong Đại
Đế (Quan Thánh Đại Đế 關聖大帝 sau đổi thành Quan Thánh Đế Quân 關聖帝君).
- Đạo Nho xưng là Thánh (Võ Thánh 武聖), đạo Thích xưng là Phật (Già
Lam Bồ Tát 伽藍菩薩), đạo Lão xưng là Thiên Tôn (Dực Hán Thiên Tôn 翊漢天尊 là
Thiên Tôn phò trợ cho nhà Hán).
Trong lịch sử tín ngưỡng thế giới chưa có "Ông Thần" nào được phong tặng, truy phong và được dân chúng lập miếu để thờ phượng nhiều như là QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN cả !
Hẹn bài viết tới !
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
bài rất hay
Trả lờiXóa