Thứ Năm, 3 tháng 8, 2023

Giáo sư Đặng Ngọc Thiềm - Nguyễn Duy Chính

Giáo sư Đặng Ngọc Thiềm

 


    Để tưởng nhớ một ông thầy cũ

đã “khai tâm” cho tôi môn Hán Văn

ở CVA năm đệ Thất 1959-1960.

  

   (xem Tôi học chữ Hán tr )

 

Giáo sư Đặng Ngọc Thiềm
 

Thằng Tiến Con ghé tai tôi nói nhỏ:
- Thim thừ là con cóc.
Tôi hơi ngạc nhiên, không hiểu tại sao nó lại có thể “uyên bác” đến thế, hỏi lại:
- Thim thừ là con cóc?
Thằng Tiến gật gù:
- Đúng rồi, tao mới tra hôm qua. Nhà tao có quyển từ điển Hán Việt.
Phục thằng này thật, nó bé bằng tôi mà cái gì cũng biết. Nó lại thì thầm:
- Mày nhìn xem ông ấy có giống con cóc không?
Nó nói đây là nói v ông giáo sư Việt Văn đang trên bục giảng bài, ông Đặng Ngọc Thim. Cái tên nghe cũng hay nhưng những đứa bé 11 tuổi vừa vào đệ Thất chúng tôi thì chắc chẳng ai muốn biết cái tên ông ấy nghĩa là gì, trừ thằng Tiến. Độ này chúng tôi đã hơi quen quen với tính khí của ông Thim nên cũng đỡ sợ chứ mấy hôm đầu vừa thấy ông ta bước vào lớp là đã chết khiếp. Nhìn kỹ, với cái bụng to và đôi mắt gườm gườm, đứng chống hai tay lên bàn ông quả cũng giống một con cóc đang chờ mồi thật.

Ngày nhập trường, ông giám thị đọc danh sách tên chúng tôi theo thứ tự ABC, kiểm tra từng đứa, rồi chỉ vào chỗ ngồi hết bàn trên thì xuống bàn dưới, mỗi bàn ba người.
Hôm sau, giáo sư vừa vào lớp, chúng tôi đứng lên chào. Ông Thim lần đầu gặp mặt, đứng chống nạnh, hầm hè nhìn chúng tôi. Ông không cho ngồi xuống ý chừng muốn ra oai, quát lớn:
- Ai cho các chú ngồi lộn xộn như thế này?
Gớm, người đã cao to mà tiếng lại oang oang, đanh thép chúng tôi đứa nào đứa nấy mặt xanh như tàu lá. Không nghe trả lời ông cao giọng lập lại câu hỏi. Cả bọn ngơ ngác nhìn nhau, mãi mới có một tên can đảm nhất lắp bắp:
- Thưa thầy đấy là ... là thầy giám thị xếp đấy ạ!
Mặt ông hơi dịu xuống nhưng vẫn nghiêm nghị, quát tiếp:
- Các chú ra ngoài kia xếp hàng.
Chúng tôi vừa toan bước ra, ông tiếp:
- Mang theo tất cả sách vở, đồ đạc, không được bỏ sót thứ gì.
Bọn trẻ con líu ríu thu dọn cặp, xách đồ tế nhuyễn, riêng tư ra ngoài sân. Ông Thim lại quát:
- Các chú xếp hàng một, bé đứng trước, lớn đứng sau, không được chen lấn.
Chúng tôi cố gắng đứng cho ngay ngắn. Ông thầy chống tay ngang hông đi từ đầu đến cuối, thỉnh thoảng lại nắm một cậu lôi ra, đổi chỗ cho người khác. Một lúc sau, cả lớp chúng tôi thành một hàng từ thấp lên cao không lẫn lộn, ông nghé mắt ngắm đi ngắmlại, bấy giờ mới thôi. Ngừng lại một giây như chừng đắc ý với đội quân tí hon đã chịu phép, ông cầm danh sách lớp học, hỏi tên từng đứa, đánh số cẩn thận vào bên cạnh rồi cho vào theo thứ tựmới. Thế là tôi ngồi cạnh thằng Tiến con và thằng Chí là ba đứa bé nhất lớp ngay bàn đầu. Mấy tuần sau Chí đổi sang Trần Lục, lên thay chỗ là thằng Long (Tiu). Sau khi đã yên vị đủ 55 đứa trẻ, ông giáo bước lên bục nhìn xuống một vòng hỏi:
- Chú nào mắt kém, tai kém thì đứng lên.
Một đứa đeo kính rụt rè đứng dậy, giọng khàn khàn:
- Thưa thầy con bị cận thị!
Ông ra lệnh lên bàn đầu ngồi, đuổi thằng ngồi trên xuống. Xếp lớp xong, ông chỉ một đứa tương đối lớn và chững chạc, ăn mặc tươm tất quyết định:
- Chú này làm trưởng lớp, vẽ một bản đồ lớp đ tên từng người nộp cho tôi.
Năm đầu tiên, không biết vì thiếu giáo sư hay sao mà lớp Thất A (ban Anh Văn sinh ngữ chính) chúng tôi học ông Thim đến năm sáu môn. Việt Văn mỗi tuần 4 tiếng, có thêm môn phụ là Hán Văn, mỗi tuần một tiếng. Công Dân, lúc đầu có cụ Can, sau cụđổi đi nơi khác, ông Thim dạy luôn, thêm Sử Địa nên cả thảy đến gần chục giờ mỗi tuần, ngày nào cũng gặp ông.
Ông Thim cao to, bụng bự có thể gọi là phương phi, mặt tròn, tóc chải lật v sau, râu quai nón tuy cạo nhẵn nhụi nhưng vẫn còn vết xanh mờ mờ. Ông luôn luôn ăn mặc chỉnh t, thắt cà vạt hẳn hòi nên dễ có uy với đám học sinh bé bỏng. Ấy đừng tưởng ông mập mạp, phục phịch mà lầm. Khi cần ông nhanh như con cắt. Chính mắt tôi thấy năm đệ Ngũ, một đứa trẻ đứng ngoài sân chọc ghẹo gì ông không biết mà từ phòng giáo sư ông phóng ra thoắt một cái đã nắm cổ thằng bé đang chạy thục mạng, xáng cho mấy bạt tai sau đó lôi vào giao cho giám thị.
Trong khi các giáo sư khác thường thường đi xe gắn máy, ông nào sang lắm thì đi Lambretta, Vespa, ông Thim đi xe hơi màu trắng ngà mang biển số NBS-555 mà có đứa phiên dịch thành Nhà Bảo Sanh ba số Năm. Ông Thim có máu sa đích – thích hành hạ trẻ con và dường như mỗi lần “giáo dục” một đứa trẻ, ông chì chiết, nhiếc móc rất lấy làm thích thú. Mỗi khi chúng tôi bị gọi lên trả bài thì đứa nào cũng run lẩy bẩy. Không hiếm những đứa bị ông lôi ra hành hạ vì những cớ thật nhỏ nhoi, phần nhiu không liên quan gì đến việc học của thằng bé. Thằng Khải bị ông bật đến sưng cả tay chỉ vì trót dại đeo mấy sợi dây cao su sau giờ  chơi chưa kịp tháo ra. Thằng Hiệp bị ông cốc lên đầu bốn năm cái đau đến tái người chỉ vì đội một chiếc mũ casque cũ - loại nón cối của mấy chàng bộ đội - mà ông cho rằng bắt chước Tây đồn đin, hẳn là còn luyến tiếc thời kỳ thực dân bóc lột. Mỗi lần gọi đọc bài, ông theo một thứ tự nhất định cách nhau 5 hay 10 tên chẳng hạn 1, 6, 11, 16 ... hay 2, 12, 22 ... Chính vì thế chúng tôi lâu dần cũng đoán được ngày hôm đó những đứa nào sẽ phải lên “đoạn đầu đài”. Thỉnh thoảng ông lại làm một màn xét ngăn kéo và không ít những đứa bị phạt hay bị trừ điểm vì giấu trong đó một bộ truyện Tàu hay một tờ báo thiếu nhi. Thằng Học có một bộ Kích Tôn Sơn Bá Tước (dịch từ Le Comte de Monte Cristo của Alexandre Dumas) - mà thuở đó người ta in thành từng tập mỏng - đem vô cho bạn bè mượn bị ông tịch thu mất mấy tập phải năn nỉ mãi ông mới trả lại sau khigiảng cho nó một bài moral kèm thêm mấy cái véo tai đau điếng.

Thế nhưng phương pháp dạy học của ông cũng có nhiu điểm đặc biệt. Ông bắt chúng tôi lột hết những bìa bao bên ngoài sách vở - mà thông thường chúng tôi dùng báo ThếGiới Tự Do tháo ra cho đỡ tốn tin - lấy cớ là sẽ không tập trung nghe giảng bài mà lại xem hình ngoài tập sách. Mỗi môn học ông bắt dùng một loại giấy bóng màu riêng cho dễ phân biệt, mỗi cuốn phải có nhãn dán bên ngoài chứ không được để trần. Hàng tuần chúng tôi phải mặc quần short trắng ngày thứ hai và quần short xanh những ngày còn lại. Phương pháp tổchức của ông Thim do đó tạo cho lớp học một vẻ đồng nhất của một đạo quân tí hon, khô ai ngoại lệ.


Nguyễn Duy Chính

Tác phẩm
Sinh năm 1948 tại Sơn Tây. Hiện sinh sống tại Santa Ana, California

Tác phẩm

Việt Thanh chiến dịch, Thanh Việt nghị hoà
Giả vương nhập cận, Đại Việt quốc thư (dịch thuật)


Xem Thêm :

Nguyễn Duy Chính với loạt sách về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn

1 nhận xét: