Ngày ở quê, nhớ những chị bé Tư, chị Vàng xưa...)
o0o
Ngày chị Tư gặp tôi ở San Jose, chị mừng ứa nước mắt hai hàng. Vừa
lấy tay quẹt ngang mắt, cái điệu quen thuộc y như ngày xưa, chị vừa
cười:
- Gặp cô ba tui mừng quá à. Lâu lắm rồi tui mới khóc được. Vừa khóc mà vừa cười.
Tôi nhìn chị trân trân. Chị Tư Trợn da đen nhẻm ẳm tôi ngang hông
ngày xưa bây giờ trắng da dài tóc, không hẹn nhau trước chắc tôi không
thể nhận ra.
Lúc chia tay chị, tôi hỏi:
- Em kể chuyện của chị được không?
- Chuyện đời tui có chi đâu mà kể, dị òm.
- Em kể chuyện mộ gió nha.
- Ờ, cô ba còn nhớ chuyện mộ gió hả?
Mắt chị chợt buồn xa xăm:
- Tui thì quên lâu rồi.
Sao mà tôi quên chuyện mộ gió được!
o0o
Ngày sinh ra cô con gái đầu lòng, ba chị tự tay trồng cây mai vàng trước ngõ.
Thứ nhất nhau quàng, thứ nhì vàng da. Lúc mới sinh ra chị hai bị
nhau quàng quấn quanh cổ, nằm lì trong bụng mẹ, bà mụ loay hoay lựa thế
mãi mới lôi ra được nên da chị vàng như nghệ, cả nhà quen miệng gọi chị
Vàng.
Năm đó mai vàng nở bung 5 cánh to tròn rực rỡ trước hiên nhà.
Mẹ chị có bầu sòn sòn 3 năm liên tục, chỉ rặt toàn con
gái. Ba chị đã chán không còn hăm hở trồng nhánh mai mới như lần đầu.
Mỗi lần có một
đứa con gái chào đời ba chỉ ghép thêm nhánh mới vào cội mai cũ, hết mai
trắng rồi đến mai hồng, Bạch Mai là chị bé ba, Hồng Mai là chị bé tư.
7 năm sau, đến đứa con đẻ ráng cuối cùng, ba hồi hộp trồng hẳn cây mai tứ quý ngay cửa sổ. Vậy là cậu út Quý
Mai được sinh ra trong nhẹ nhõm của mọi người, cả nhà vang ầm lên tiếng
khóc ngằn ngặt của cậu út và tiếng cười sang sảng của ba.
Vừa sinh ra cậu út Quý Mai là mẹ nằm liệt giường vì hậu sản. Toàn bộ công việc nhà đổ hết lên vai chị Vàng. Mới 12 tuổi, chị đã phải thức đêm quậy sữa
hộp ông thọ với nước cháo sền sệt mớm cho em trai, ngày thì đi gánh
nước mướn. Hai đòn gánh hằn lên xương quai xanh hai lằn tím bầm không
bao giờ tan. Chị Ba bế em trẹo một bên hông, cái hông lâu ngày chai
ngắt, ngồi đâu cũng lồi lên một cục, cậu út Quý hay lấy tay chà vào riết rồi thành ghiền. Chị bé Tư tuổi
còn nhỏ nhất, ham chơi nhảy dây, lò cò, vứt cậu út ra bên hè, bị kiến lửa cắn sưng mông. Ba vừa đi lái xe thồ về thấy cậu út
Quý khóc tím tái không thành tiếng, vội lấy ngay cây đũa
cả quất từ trên đầu chị bé Tư quất xuống, tét một đường máu chảy lênh
láng. Chị bé Tư dãy tê tê mà không dám la, mắt trợn ngược. Từ đó, mỗi
lần đến mùa lạnh, đầu chị lại nhức buốt đến óc,
mỗi lần gặp chuyện sợ hãi hay bị xúc động, chị lại bị làm kinh phong
giựt tay chân, mắt trợn ngược. Riết rồi mọi người quen dần gọi chị Tư
trợn. Sau này thấy hay hay, mỗi lần xem cải lương đến đoạn cô đào hát
xuống một câu mùi mẫn, chị cũng trợn ngược mắt,
giựt tê tê người cho cậu út Quý cười quên thôi!
Mấy chị em theo nhau lớn dần lên, năm chị Vàng 15 tuổi ba bỏ nghề
xe thồ, theo ghe đi lưới cá. Rồi một ngày, ghe không thấy về và ba cũng
không thấy về. Vườn sau nhà thêm một ngôi mộ gió. Trước mộ gió của ba,
mẹ trồng một cây đậu biếc.
Kể đến đây, chị Tư Trợn hỏi tôi:
- Cô ba biết sao mà trồng dây đậu biếc không?
Rồi chị tự trả lời:
- Người quê tui nói, hoa đậu biếc tưởng tiếc cả đời. Mà
không có ở đâu hoa đậu biếc tím như ở quê tui, tím não tím nùng, tím
rụng xuống đất rồi mà vẫn còn tím mịt mùng, tím héo hon.
Có người làng đi chợ huyện về kể cho mẹ nghe thấy ba chạy mối hàng
cho sạp tạp hóa của cô Năm Ngọt, giọng cô ngọt ngào còn hơn cái tên. Mẹ
lật đật búi lại mái tóc, theo xe lôi chạy ra chợ huyện.
- Rồi sao chị tư?
Tôi nóng ruột hỏi.
- Tới xế chiều mẹ mới về, người héo rũ như bông đậu biếc rụng xuống
đất. Mẹ nói, người giống người thôi. Chứ ba đâu có bất nhân bạc tình
như vậy.
Nói xong là mẹ nằm quay mặt vào tường, rồi mẹ nằm luôn một chỗ, như cây mai vàng bị đốn ngã.
Từ đó, Chị Vàng dắt theo cậu út Quý đi làm mướn nuôi cả nhà. Bé Ba và bé Tư quanh quẩn gánh nước mướn thế cho chị và nuôi cơm, chăm sóc cho mẹ.
15 tuổi, chị Vàng đã có thịt có da, má bắt đầu lộ nét
hồng rạng ngời mơn mởn trút sạch lớp da vàng ệch ngày thơ. Miệng chị
cười có lúm đồng tiền điếu ẩn hiện rất duyên, trong khi đuôi mắt đen thì
buồn quá đổi. Cậu hai, con nhà chủ đi nghĩa vụ
mới về nhà, liếc thầm để ý. Nhất là mỗi chiều chạng vạng khi chị Vàng
bế em bé con bà chủ ra trước ngỏ hóng gió, thằng nhỏ đeo bám chặt vào bộ
ngực thanh tân mới nhú cứng ngắc chỏm cau của chị Vàng, hằn rõ
đường nét tơ non qua làn áo vải sờn mỏng. Cậu hai tìm cách xớ rớ chung quanh, hết lấy tay vờ nựng em đến bẹo má, vuốt đùi thằng
bé tìm cách động chạm vào ngực chị Vàng. Chị sợ hoảng,
con gái mới lớn lần đầu có hơi trai, co rúm toàn thân nhưng không dám
chống cự. Cậu Hai cười cười lơi lã, ngày càng xán lại gần hơn, bàn tay
bạo dạn nán lại trên vùng da thịt con gái lâu hơn! Tội chị Vàng, đêm nằm
vừa thẹn thùng, vừa xôn xao là lạ, lại tủi thân không có má một bên để
tâm sự, nước mắt nhỏ ròng ròng ướt hết vạt
chiếu.
Một hôm trời nhá nhem tối, cậu Hai lấn xấn mãi cạnh chị Vàng, rồi
chừng như cầm lòng không đặng, cậu thọc hẳn tay vào trong làn áo ngực
vải thô cứng, mắt đờ dại nhìn chăm chăm chị Vàng. Chị Vàng giật thót
người, ứa nước mắt van vỉ:
- Con xin cậu. Cậu đừng làm vậy ai thấy kỳ lắm.
Cậu Hai tẻn tò vừa rút tay ra, vừa tiếc ngẩn ngơ mùi da thịt săn chắc mát rượi. Chị ẳm em bé chạy thụt mạng về nhà, cậu út Quý lủi thủi chạy theo sau lưng chị khóc thút thít. Đâm sầm vào người bà chủ, chị Vàng chưa kịp mở miệng,
cậu út Quý đã mếu máo ngọng ngịu:
- Cậu Hai ò ti chị Vàng con…
Mặt bà chủ xám ngoét:
- Cú mà dám chòi nhà tiên hả? Mày cả gan quá vậy Vàng? Mày dám nói lại cho tao nghe coi.
- Dạ, con không dám, con xin cậu mà cậu không chịu nghe.
Chị Vàng gục đầu khóc nức nỡ không thành tiếng.
Cậu Hai vừa lệch xệch dép lào về tới cửa, hất hàm:
- Con này nói gì hả mẹ?
- Chị em con này dám mét con bờm xơm nó, quân điêu ngoa.
Bà chủ rít qua kẻ răng.
- Mày nhìn lại mày coi, hôi hám xấu xí cở này ai mà thèm đứng gần. Chắc nó nằm mơ.
Cậu Hai nhếch miệng cười sượng.
Bà chủ sấn sổ nhào tới:
- Đánh một trận cho nó chừa thói gian ngoa, láo khoét.
- Thôi, đuổi cổ chị em nhà nó đi là được rồi. Không mình lại mang
tiếng ác với người ăn kẻ ở. Cái thói ngu lâu, ngon ngọt lại không muốn.
Cậu Hai câng câng mặt thọc tay vào túi áo pyjama ngoảnh đi.
Vậy là đêm đó đồ đạc của hai chị em bị hất tung ra đầu ngỏ. Lận cuộn tiền giấy 100 vào lưng quần, chị Vàng vừa dắt tay cậu út Quý bước đi vừa cắn chặt răng nín khóc. Về đến cổng nhà, chị cứ đứng mãi trước cội mai già khô không hoa,
không dám bước qua ngạch cửa, nước mắt tuôn xuống thân cây ròng ròng như suối.
Chị Tư trợn tròn mắt:
- Hai để đó em, Hai đừng đi làm mướn nữa, để em làm mướn nuôi cả
nhà. Em xấu xí như vầy lại có bệnh động kinh, không có ai dám chạm vào
người em đâu!
Năm đó chị Tư vừa tròn 13 tuổi, người đẹt lét, chỉ được
mồm miệng lanh lợi hay cười nói. Ngày người ta dắt tay Tư đến cửa nhà
tôi, Má tôi ngần ngừ hết cả buổi. Nhưng cuối cùng tặc lưỡi nhận cho Tư
ẳm em. Ai ngờ mà tôi lại quấn quít Tư như chị
ruột. Trưa hè, Tư ra vườn hái rau đồng về nấu canh tôm tươi tập tàng,
trộn rau sống với đắng đất cuộn chấm mắm cáy. Hôm nào rảnh việc, Tư hái
mớ lá sương sâm về tự vò tay thành thạch xanh đặc quánh, ăn với đường
cát mát lành, không có dầu chuối, nước cốt
dừa như
ở ngoài chợ bán. Lụi cụi Tư trồng thêm mảnh ruộng lúa mùa 6 tháng không
xịt thuốc hóa học, hạt gạo chưa chà hết cám
thơm dẻo bùi ngậy như hạt nếp, gạo ngon nấu nồi đất cháy cạnh, chan
nước thịt ram, dằm thêm trái ớt hiểm, cả nhà ăn ngon chảy nước mắt sống.
Mỗi ngày Tư chịu khó rang vỏ đậu nành làm nước uống, bỏ thêm lát gừng
thơm thanh tao. Trưa hè Tư đập dập nắp phén nạo
dừa, nấu chè đậu xanh nguyên hạt với đường thốt nốt mát ruột. Tôi và
chị bé Tư ngủ chung trên gác lửng xây xi măng, đêm nào Tư cũng vừa gãi
lưng, vừa kể chuyện về làng chài ven biển cho tôi dễ ngủ.
Một đêm mùa đông Tư lại cơn cũ động kinh giật
chân tay, cả nhà vác Tư đi cấp cứu bệnh viện, tôi ngồi ngoài thềm khóc
tức tưởi tới sáng. Sau lần đó, Tư được má tôi nhận làm con nuôi và cho
ăn học đàng hoàng tử tế.
Một lần, Tư xin về thăm làng biển rồi không quay trở lại nữa. Tôi
nhớ hơi Tư khóc suốt một tuần. Sau rồi, người ở quê kể Tư vô tình mà
được theo ghe vượt biển trót lọt.
o0o
Tôi hỏi Tư có nhớ ngôi mộ gió không.
Tư cười buồn:
- Giờ ngôi mộ đó vẫn còn sau vườn. Mà dây đậu biếc chết khô từ lâu.
Mỗi năm má tui vẫn cúng giỗ đúng ngày ba tui đi biển không về.
- Rồi còn người đàn ông ở chợ huyện?
Tôi buột miệng hỏi.
Tư nhìn xa xăm:
- Hơn 30 năm tui mới về thăm nhà. Tui mướn cái xe hơi con màu trắng thiệt sang, việt kiều mà, chạy vào làng cho
má vui. Ngày hôm sau, tui lén má chạy ra chợ huyện ghé quán tạp hóa của bà Năm Ngọt. Tui gặp người đàn ông đó.
- Rồi sao Tư?
Tôi lại nóng ruột buột miệng hỏi như ngày xưa.
- Ngộ nha. Ông đó giống y ba tui thiệt. Gặp tui, ổng gọi nhỏ trong
họng "Tư Trợn, con!" gọi nhỏ xíu mà tui cũng nghe. Ba nè con - rồi ổng
khóc, mắt đỏ hoe.
- Rồi Tư nói sao?
- Thì tui nói như má tui nói vậy đó. Không phải đâu, người giống
người thôi, ông không phải ba tui. Ba tui chết rồi, còn cái mộ gió ở
nhà.
Nói xong như vậy, tự nhiên tui hết sạch buồn, hết tủi hờn nó nặng
ngực suốt 30 năm. Sao nhìn thấy ổng sống mà tui buồn quá đổi. Buồn hơn
nhìn ngôi mộ gió sau nhà kia...
UYÊN LÊ
(hoa Huỳnh chuyển )
bài rất hay
Trả lờiXóa