Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2024

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 110: THÙY, THUYÊN, THUYỀN, THƯ, THỬ ( Đỗ Chiêu Đức)

THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 110 :

      THÙY, THUYÊN, THUYỀN, THƯ, THỬ        
         
                                  
 
       THÙY Y 垂 衣 là Rủ áo. Lấy ý từ một câu trong Kinh Dịch. DỊCH viết: Huỳnh Đế, Nghiêu, Thuấn thùy y thường nhi thiên hạ trị.《易》曰:「黃 帝、堯、舜 垂 衣 裳 而 天 下 治。」có nghĩa: Huỳnh Đế, vua Nghiêu vua Thuấn chỉ rủ tay áo xuống mà thiên hạ được yên lành. Nhìn từ góc độ chính trị, Rủ tay áo là buông thỏng tay áo xuống không làm gì cả; Hàm ý tương tự như là thuyết VÔ VI (không làm gì cả) của Đạo Giáo vậy. "Rủ tay áo xuống không làm gì cả" có nghĩa là "Không bày vẽ thêm chính sự, không vọng động làm những chuyện kinh động đến cuộc sống bình yên của dân chúng; chớ không phải không làm gì cả! Nên...
       THÙY Y là chính sách lấy đức để trị cho dân yên nước mạnh; chớ không bày vẽ thêm chính sự để chứng tỏ uy quyền của vua chúa. Trong "Thiên Nam Ngữ Lục" một tác phẩm sử thi theo thể lục bát soạn bằng chữ Nôm, tổng cộng là 4.068 câu lục bát, tức 8.136 dòng. Đoạn nói về nhà Trần có câu:

                    Hiệu Xưng Trùng Quang THÙY Y,
               Hay tôn Giản Định xưng vi Thượng hoàng.    
               
                   

      Trái với THÙY Y, ta có THÙY LIÊM 垂 簾 là Buông rèm xuống. Đây là từ nói tắt của thành ngữ THÙY LIÊM THÍNH CHÍNH 垂 簾 聽 政 là buông rèm xuống để nghe về chính sự. Đây là một hình thức tham chính của các chế độ phong kiến ngày xưa. Thông thường là Hoàng hậu, Hoàng Thái Hẫu hay Thái Hoàng Thái Hậu lâm triều chấp chánh khi nhà vua lên ngôi còn qúa trẻ, nhưng hiềm vì lễ giáo phong kiến, nữ giới không được trực diện để bàn việc nước với các quan lại nam giới, nên các bà phải ngồi sau lưng nhà vua trẻ sau bức rèm để giúp vua điều hành và xử lý tất cả mọi việc trong triều. Nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Hoa có Tuyện Thái Hậu đời nhà Tần, và trong lịch sử cận đại có Từ Hi Thái Hậu của nhà Thanh.
       Trong "Hạnh Thục ca" của Nguyễn Nhược Thị Bích (1830-1909) nói về bà Từ Dụ Thái hậu có câu:

                          Thảy đem ưng dạ triều đình,
                 THÙY LIÊM vậy phải trao phân tiếng vàng.
             

       THUYỀN LAN CHÈO QUẾ hay CHÈO QUẾ THUYỀN LAN đều là do nhóm từ chữ Nho QUẾ TRẠO LAN TƯƠNG 桂 棹 蘭 槳 mà ra. Đây là một câu hát trong bài "Tiền Xích Bích Phú 前 赤 壁 賦" của Tô Đông Pha đời Tống. Cả bài như sau:

    桂 棹 兮 蘭 槳,            Quế trạo hề lan tương,
    擊 空 明 兮 泝 流 光。  Kích không minh hề tố lưu quang.
    渺 渺 兮 予 懷,            Diểu diểu hề dư hoài, 
    望 美 人 兮 天 一 方。  Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.
      
Có nghĩa :
                 Đây nầy CHÈO QUẾ THUYỀN LAN,
                 Quẫy vầng trăng sáng đùa làn nước trong.
                 Lòng ta bát ngát mênh mông,
                 Vọng về người đẹp ngóng trông phương trời !

       Uy Viễn Tướng Công, cụ Nguyễn Công Trứ nhà ta cũng có bài hát nói "Vịnh Tiền Xích Bích" với các câu như sau:

                Ông Tô tử qua chơi Xích Bích,
                Một con thuyền với một túi thơ.
                Gió hiu hiu mặt nước như tờ,
                Trăng chếch chếch đầu non mới ló.
                Thuyền một lá xông ngang gành bạch lộ,
                Buông chèo hoa len lỏi chốn sơn cương.
                Ca rằng:
                        Quế trạo hề lan tương,
                        Kích không minh hề tố lưu quang.
                        Diểu diểu hề dư hoài,
                        Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương.
                Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương,
                Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước...

       Trong truyện thơ Nôm "Mai Đình Mộng Ký" của Nguyễn Huy Hổ có câu:
                      Này này QUẾ TRẠO LAN TƯƠNG,
                 Ví đua Xích Bích, chi nhường Đông Pha 

       Còn trong "Sơ Kính Tân Trang" của Chiêu Lỳ Phạm Thái thì viết:
                          Thôi đường bộ, lại ra khơi,
                THUYỀN LAN CHÈO QUẾ thảnh thơi giang hồ.
             
                             

       THUYỀN QUYÊN 嬋 娟 Có ba ý nghĩa sau đây :

     * THUYỀN QUYÊN 嬋 娟 là tên của một thị nữ và là học trò của nhà thơ yêu nước Tam Lư Đại Phu Khuất Nguyên 屈 原 nước Sở. Vì Khuất Nguyên chủ trương chống hủ bại để thi hành chính sách nhân đạo; Sở Hoài Vương không theo, lại nghe theo lời dèm xiểm của phe bảo thủ giam lỏng Khuất Nguyên ở nhà Thái Miếu. Thuyền Quyên đi tìm Khuất Nguyên khắp nơi, đến khi tìm gặp được thầy ở nhà Thái Miếu thì đã sức mỏn hơi tàn. Khuất Nguyên bèn lấy rượu của Sở Hoài Vương ban cho nàng uống, nào ngờ đó là rượu độc, Thuyền Quyên đã chết thay cho thầy. Khuất Nguyên bi phẩn ngâm to bài Thiên Vấn 天 問 (Hỏi Trời: Một bài thơ trường thiên nổi tiếng của Khuất Nguyên) rồi lấy gấm lụa đắp cho Thuyền Quyên. Lính canh giữ Khuất Nguyên cảm động cứu ông ra ngoài rồi nổi lửa đốt nhà Thái Miếu.

    * THUYỀN QUYÊN 嬋 娟 là Người Đẹp có thân hình thướt tha ẻo lả, như trong "Thuyền Quyên thiên 嬋 娟 篇" của Thi Tù Mạnh Giao đời Đường:
 
   花 嬋 娟,泛 春 泉。    Hoa Thuyền Quyên, phiếm xuân tuyền.
   竹 嬋 娟,籠 曉 煙。    Trúc Thuyền Quyên, Lung hiểu yên.
   妓 嬋 娟,不 長 妍。    Kỹ Thuyền Quyên, bất trường nghiên.
  月 嬋 娟,真 可 憐。    Nguyệt Thuyền Quyên, chơn khả liên !
     
Có nghĩa :
                Suối xuân hoa nổi Thuyền Quyên,
                Chập chờn trúc sớm nghiêng nghiêng mơ màng.
                Kỹ Thuyền Quyên chẳng cao sang,
                Nguyệt Thuyền Quyên tỏa ánh vàng dễ thương !

    * THUYỀN QUYÊN 嬋 娟 là ánh trăng , là mặt trăng. Như hai câu cuối trong bài từ "Thủy Điệu Ca Đầu 水 調 歌 頭"của Tô Đông Pha đời Tống là:

       但 願 人 長 久,     Đản nguyện nhân trường cửu,
       千 里 共 嬋 娟.     Thiên lý cộng Thuyền Quyên !
     Có nghĩa :
                       Mong sao người được dài lâu,
                 Bóng trăng ngàn dặm trên đầu cùng soi !

      Trong Truyện Kiều, cụ Nguyễn Du đã ba lần bảy lượt dùng từ THUYỀN QUYÊN để ví với Thúy Kiều là một người đẹp, như khi Thúy Kiều quyết định bán mình chuộc tội cho cha, cụ đã viết:

                   Xót nàng chút phận THUYỀN QUYÊN,
                 Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.

    ... và lời của gả Sở Khanh đã nói với Thúy Kiều khi nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích rằng:

                  THUYỀN QUYÊN ví biết anh hùng,
                  Ra tay tháo củi sổ lồng như chơi!

      Hay như khi Từ Hải chuộc Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh để cho:
                      Trai anh hùng, gái THUYỀN QUYÊN,
                Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cởi rồng.
          
                 

      THƯ HỒNG 書 鴻 là Thư do chim hồng nhạn mang đến. Chim HỒNG 鴻 chim NHẠN 雁 là hai loại vịt trời hay bay thành từng đàn từng bầy, con lớn bay trước hướng dẫn cho con nhỏ bay sau, nên HỒNG NHẠN 鴻 雁 còn dùng để chỉ tình anh em, đồng đội, bằng hữu... như trong truyện thơ Nôm "Hoa Điểu Tranh Năng":
                        Dốc tình bằng hữu chu tuyền,
                 Nghĩa HỒNG NHẠN vẫn còn truyền xưa nay.

      Chim HỒNG chim NHẠN còn là hai loại chim dùng để đưa thơ ngày xưa, nên tin thư gọi là TIN HỒNG hay TIN NHẠN như trong Truyện Kiều khi Tú Bà dạy nghề cho Thuý Kiều:

                        TIN NHẠN dẫn, lá thư bài,
                Đưa người cửa trước, rước người cửa sau.

      Còn đưa tin bằng chim HỒNG thì gọi là HỒNG TIỆN như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đoàn Thị Điểm:

                    Gió tây thổi không đường HỒNG TIỆN,
                    Xót nỗi người tuyết quyến mưa sa.  

      Hay gọi là THƯ HỒNG như trong truyện thơ Nôm "Lưu Nữ Tướng":

                    Dan tay chịu lấy THƯ HỒNG,
                Ngoài đề khách tứ thu phong rõ ràng.
             
                       

     THƯ HƯƠNG 書 香 là Mùi thơm của sách; chỉ cha ông đời trước là người có học thức. Ta có thành ngữ THẾ ĐẠI THƯ HƯƠNG 世 代 書 香 là Gia đình có học thức truyền từ đời nầy sang đời khác; và THƯ HƯƠNG TỬ ĐỆ 書 香 子 弟 là con em thuộc dòng dõi thư hương. Nói theo lúc bấy giờ là "Con em thuộc dòng dõi Nho gia".
     Khi bị Tú Bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều gặp được một chàng thư sinh ngỏ ý muốn cứu vớt đời mình, thấy chàng ta cũng "Hình dong chảy chuốt áo khăn dịu dàng" nên mới...
                    Nghĩ rằng cũng mạch THƯ HƯƠNG,
                  Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.

      Ngạn ngữ Trung Hoa có câu :
 THƯ trung hữu nữ nhan như ngọc,     書 中 有 女 顏 如 玉,     
 THƯ trung tự hữu hoàng kim ốc.        書 中 自 有 黃 金 屋。

Có nghĩa :
       - Trong sách có sẵn các cô gái dung nhan xinh như ngọc.
       - Trong sách tự nó cũng có sẵn căn nhà được dát vàng.
           
        Ý muốn nói: Cứ cắm đầu vào sách mà học cho chuyên cần đi, khi đã hiểu hết những kiến thức ở trong sách rồi thì cũng đã... thành tài rồi, thi đậu rồi, và khi đã đậu đạt làm quan rồi thì ắt sẽ có vợ đẹp như ngọc và sẽ có nhà dát vàng với lầu son gác tía mà ở thôi.
                   
                     

        THỬ BÌ 鼠 皮 là Da con chuột. Có xuất xứ từ bài thơ "Tướng Thử 相 鼠"(Ngắm chuột) trong thiên Dung Phong 鄘 風 của đất Hà nam trong Kinh Thi như sau:

 相 鼠 有 皮,人 而 無 儀;Tướng thử hữu bì, Nhân nhi vô nghi;
人 而 無 儀,不 死 何 為?  Nhân nhi vô nghi, Bất tử hà vi?
       Có nghĩa :
                      Kìa xem con chuột có da,
                  Người vô nghi lễ chẳng thà bỏ đi.
                      Người vô nghi lễ kể gì,
                  Sống không nghi lễ chết đi cho rồi 

       Ý là làm người phải biết giữ lễ nghi phong cách cho đàng hoàng để làm gương cho con cháu, như trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Trinh Thử" có câu:

                        Bởi phân làm thập nhị chi,
                  Trong Kinh ghi dạy THỬ BÌ còn gương ! 

      THỬ THIẾT 鼠 竊 là Con chuột ăn cắp, có nghĩa "Con chuột ăn vụng", là từ nói gọn của thành ngữ THỬ THIẾT CẨU ĐẠO 鼠 竊 狗 盜. có nghĩa: "Con chuột ăn cắp, con chó ăn trộm", chỉ những chuyện vặt vãnh nhỏ nhoi không đáng kể. Có xuất xứ từ sách Sử Ký như sau:
      Cuối đời nhà Tần, nông dân nổi dậy khởi nghĩa khắp các nơi. Thừa Tướng Triệu Cao bắt nhốt hết những tướng sĩ đưa tin về triều đình, cho là họ đặt điều nói dối. Khi lâm triều Tần Nhị Thế Hồ Hợi hỏi về tình hình việc các nơi nông dân khởi nghĩa, thì Thúc Tôn Thông người cùng phe đảng của Thừa Tướng đáp rằng: "Đó chỉ là bọn THỬ THIẾT CẨU ĐẠO 鼠 竊 狗 盜 vặt vãnh không đáng quan tâm, Bệ hạ bất tất phải hoang mang". Tần Nhị Thế u mê, nghe xong rất vui còn phong thưởng cho Thúc Tôn Thông nữa. Chẳng bao lâu sau thì nhà Tần bị lật đổ, đưa đến việc Hán Sở tranh hùng...  
  
      THỬ THIẾT CẨU ĐẠO 鼠 竊 狗 盜 thường dùng để chỉ bọn ăn trộm vặt, và những đám giặc cỏ không đáng quan tâm. Trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Phương Hoa-Lưu Nữ Tướng" có câu:
                         Thiên nhan nổi trận lôi đình,
               Phán rằng: "THỬ THIẾT sao khinh lưới trời?!"
              
                   


         Hẹn bài viết tới :

                 THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 111:  THỪA, THƯỚC, THƯƠNG, THƯỜNG.

                                                         杜 紹 德
                                                     Đỗ Chiêu Đức







 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Thành Ngữ Điển Tích 114 : TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH.

  Thành Ngữ Điển Tích 114 :                                 TRÌ, TRÍ, TRIÊU, TRIỆU, TRÌNH. Ao Chuôm  TRÌ ĐƯỜNG 池塘 là Ao chuôm, ao đầm, ao hồ...