Viết để mà thương cho cái nghèo của ba mẹ tôi từ những năm tha phương cầu thực.
Ấp Đồng Cò nằm chơ vơ giữa
cánh đồng rộng mênh mông, ruộng chen lưa thưa với cỏ tranh khô cằn
trong những ngày hè nắng cháy. Con đường đầu ấp dẫn ra quốc lộ Một đi
Sài Gòn, dài chừng hơn cây số rưỡi, mùa này bụi mịt mù. Nhà cửa, phần
lớn mái tranh vách đất, trừ mấy căn văn phòng chính quyền ấp, cái trường
học phía ngoài đường, xây gạch lợp tôn, tuy gần sát nhau nhưng không
mấy ngay hàng thẳng lối. Cạnh quốc lộ, cái đồn lính Nghĩa quân, hàng rào
kẽm gai chằng chịt mấy lớp bao cát quanh cũ mèm, rách nát, lấp xấp vài
ba vũng nước ruộng còn sót lại sau mùa gặt năm rồi.
Anh
lính gácngồi bó gối, trốn nắng trong chòi canh, sát bên hàng cây Trâm
bầu rợp bóng, nhìn xe đò lên xuống, thỉnh thoảng ngừng bỏ khách, người
trong ấp quen mặt đi đâu đó về. Ra khỏi vòng rào cuối ấp, khi gò đất
trống trơn, chạy dài xuống bờ con rạch nhỏ, nước nửa chừng quanh năm
suốt tháng, vài cây cỗ thụ già nua, dăm ba nhà chòi che rơm, nơi đám con
nít chăn trâu tụm năm tụm ba tán dốc, chờ trâu bò mãi mê ăn cỏ trên dãy
đồng dọc theo con rạch lúc nào cũng xanh rờn dù tháng mưa hay ngày
nắng.
Vợ
chồng anh tư Lậy, bỏ Trà Cao về Đồng Cò, với số tiền dành dụm được từ
những ngày làm thuê ở mướn, cộng thêm phần tiền giúp đở từ Tòa Thánh Tây
Ninh, khi cắn răng đốt bụng đem thằng Bon bỏ vào đó, mua lại miếng đất
nhỏ trên cái gò cao cuối ấp, cất căn nhà tranh lụp sụp, đi làm công, phụ
cấy cày cho mấy người chủ ruộng. Mùa nước lên, chờ làm đất, hai vợ
chồng xuống rạch bắt cá mò tôm mò tép, lội bộ xuống chợ Bình Nguyên, bán
đùa bán đại, vậy mà cuộc sống cũng không mấy khá hơn, cũng túng trước
hụt sau khổ sở.
Thằng
Bon về Đồng Cò, mấy ngày đầu buồn bã, nhớ ông bà Đốc Nhân rấm rứt khóc
thầm, chị Búp thương con vỗ về an ủi, dẫn nó ra cái quán cóc duy nhất
trong ấp, cạnh hàng rào trường tiểu học ấp, mua cho nó mấy cái bánh ngọt
mốc thích, vài cục kẹo chèm nhẹp vì nắng. Bon đi ngang trường, kéo tay
chị chỉ vào trong, tiếng học trò đọc bài làm nó buồn thiu, chị không nói
tiếng nào. Bon quen dần, hai ba ngày rồi năm sáu bữa, không thấy bóng
dáng ông bà Đốc, nó chán nản qua nhà bên xóm, nhập bọn với đám con nít
chăn trâu chơi đùa, chờ ngày đi học, theo lời vợ chồng anh tư Lậy hứa.
Trước
Tết ta vài hôm, sau ngày đưa ông Táo về trời, ông bà Đốc Nhân đón xe đò
đi Bình Nguyên sáng sớm, tay xách tay mang, mấy bộ đồ mới, ba bốn hộp
bánh mứt đủ màu mà bà Đốc đã mua từ vài hôm trước, hỏi thăm người trên
đường, đi Đồng Cò thăm thằng Bon. Xuống xe, anh lính Nghĩa quân gác đồn
nhanh nhẹn chỉ nhà, ông bà thả bộ vô ấp. Chị Búp đang ngồi đan đục bắt
cá trước chái nhà, thấy vợ chồng ông bà Đốc kinh ngạc, bẽn lẽn, chị mời
hai người vào nhà rồi bỏ ra sân sau, kêu anh Lậy đang phụ dựng chuồng
trâu cho nhà bên về hối hả. Chị rót miếng nước mưa lạnh vô hai cái tách
bể gần phân nửa, khúm núm để trên cái bàn cây xiêu vẹo mời, vợ chồng anh
tư Lậy đứng một bên, gió trưa thổi lộng vào căn nhà vách thưa cột
trống.
Ngó quanh quẩn không thấy thằng Bon, ông Đốc mở lời hỏi:
-Ủa thằng Bon đi học rồi hả hai cháu?
Anh Lậy đứng làm thinh, chị Búp đở cho chồng:
-Dạ,
nó chạy chơi đâu đây, để tui chạy kêu nó về. Chị vừa nói vừa chụp cái
nón lá đã ngã màu nâu đen, rách hai ba lổ lên đầu, bỏ đi nhanh ra ngoài.
Bà
Đốc nhìn theo, chị Búp vội vã băng nhanh về phía cánh đồng trống. Anh
Lậy, ngồi xuống khúc cây lớn dùng làm ghế, nhìn ông bà Đốc ấp a ấp úng:
-Tui không dám giấu ông bà, thằng Bon đi chăn trâu mướn cho người ta ngoài đồng từ sáng sớm,
Ông bà Đốc nghe nói ngồi chết trân, đưa mắt nhìn nhau, lắc đầu:
-Trời ơi sao như vậy được!
Anh tư Lậy rưng rưng:
-Cháu nghèo quá, làm sao hơn đây?
Thằng
Bon theo sau chị Búp vô nhà, cúi đầu dạ thưa ông bà Đốc, mặt mài buồn
xo muốn khóc, áo quần rách bươm, tóc tai khét nắng, đen thủi đen thui,
chừng như không thường tắm rửa. Bà Đốc xót xa ôm nó vào lòng, lập tới
lập lui hai tiếng tội nghiệp.
Ông
bà Đốc ở chơi không lâu, bỏ quần áo bánh mứt lại rồi buồn bã ra về. Vợ
chồng anh tư Lậy lúng túng đưa, thằng Bon cũng theo ra đường lộ, đứng
nhìn chuyến xe đò về tỉnh, càng lúc càng xa dần Đồng Cò. Linh tính cho
biết, có lẽ sẽ không còn gặp lại ông bà Đốc Nhân nữa rồi, nó khóc gọi
thầm ba má ơi, tiếng khóc lẻ loi tan tác trong chiều gió cuối ngày.
Chiến
tranh bắt đầu lớn dần sau đó, quân du kích Việt cộng, có vài người
trong ấp bỏ đi theo, lấp ló chờ đêm, từ miệt hướng Đức Hòa, Đức Huệ, kéo
về tấn công đồn lính Nghĩa quân ấp Đồng Cò năm ba lần. Ban đêm chó sủa
vang rân, đôi khi trụ sở ấp bị đốt, lửa cháy rực trời. Khúc đường Gò
Dầu, Trảng Bàng mìn nổ nhiều lần, hai ba người chết. Đám con nít chăn
trâu không còn ở trễ ngoài đồng, trời vừa chưa xế bóng đã vội vả lùa
trâu bò về, hết có dịp ngồi tán dóc, chờ hoàng hôn xuống.
Mùa
gặt mới bắt đầu, năm nay ruộng bỏ hoang mấy đám, nhất là phía bên kia
con rạch dọc theo cánh đồng truông lầy lội, chạy dài tới tận sông Vàm Cỏ
Đông. Du kích Việt cộng ban đêm, đợi lính Nghĩa quân rút vào đồn, mò ra
hăm dọa dân trong ấp đóng thuế lúa. Lính Nghĩa quân cũng ít khi ra xa
trừ khi có lính Địa phương quân trên quận xuống.
Trời dạo này có mưa dầm, thường
vào buổi chiều lúc mặt trời vừa lặn. Thằng Bon lùa đám trâu về chuồng
nhà ông chủ, hô to cho trong nhà nghe, ôm cái túi ni lông đựng quần áo,
giấu ở bụi rơm sau nhà ngày hôm trước, băng xéo cánh đồng gò về hướng
truông, nhìn lại ánh đèn dầu leo lét dưới mái tranh nhà nó một lần nữa.
Bon vuốt mặt, bước nhanh trên bờ đê, bóng cò ăn đêm bay lửng lờ đâu đó
phía cuối truông. Bon bỏ Đồng Cò đi giữa mùa lúa, năm vừa mười tuổi.
Thuyên Huy
(Từ cuốn “The Lonely Communist Man” 2009, I, Universe, New York)
(ảnh; Google)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét