Chúng ta cứ vô tư hát và bật loa
thật lớn mà không hề biết sự thảm hại trong từng câu từ, nội dung và hoàn cảnh
ra đời của bài hát này...
Buổi sớm trời lạnh, tôi
vẫn ra công viên chạy như thường lệ. Mấy hôm nay, nhóm thể dục nhịp điệu chuyển
qua sử dụng bài "Happy New Year" mix lại trên nền nhạc techno để tập.
Giọng hai nữ ca sĩ thay nhau hát
như… cái máy. Chắc hai cô ca sĩ cũng như tôi, như bạn, năm nào cũng nghe và
hát bài này mà ít quan tâm đến nội dung của lời bài hát, ngoài đoạn điệp khúc
dễ nhớ, dễ thuộc.
"No more champage, and the
fireworks are through
Here we are, me and you, feeling
lost and feeling blue
It's the end of the party, and the
morning seems so grey, so unlike yesterday.
Now's the time for us to
say...".
Đó có lẽ là ngày đầu tiên của năm
1980. Buổi bình minh ảm đạm và tĩnh lặng, không còn vẻ ồn ào, náo nhiệt,
vui như Tết của đại tiệc giao thừa tối qua. Rượu hết, hoa hết, pháo hết. Tiệc
tàn rồi, đi ngủ thôi chứ còn ngồi đó làm gì?
Tôi không hiểu vì sao đón giao thừa
xong, mới có mấy tiếng mà ngồi thừ nhìn nhau “feeling lost”, “feeling blue” là
sao?
Ngày đầu năm mới ấy ở xứ Bắc Âu giá
lạnh nào đó phủ một vẻ ảm đạm xám xịt tâm lý ngay từ trong tim. Nó xám hơn
dường như để lột tả cho sự trống toác của nỗi buồn chán, sự mất mát khi giọt
rượu cuối cùng đã cạn.
Vậy tại sao lại buồn chán và hụt
hẫng vào đúng ngày đầu tiên của năm?
Tại sao năm mới lại khởi đầu bằng sự kết thúc? Có phải, thời khắc mọi thứ chùng xuống và dãn ra đó, chúng ta cần tặng cho nhau những lời chúc tụng?
Tại sao năm mới lại khởi đầu bằng sự kết thúc? Có phải, thời khắc mọi thứ chùng xuống và dãn ra đó, chúng ta cần tặng cho nhau những lời chúc tụng?
Hãy xem lời chúc có gì?
"Happy New Year, Happy New Year
May we all, have a vision now and
then, of a world where every neighbor is a friend
Happy New Year, Happy New Year
May we all have our hopes, our will
to try
If we don't we might as well lay
down and die.
You and I".
Chúc cho tất cả chúng ta một lúc nào
đó sẽ cùng nhìn thấy (hay cùng mơ) một thế giới tứ hải giai huynh đệ. Chúc cho
tất cả chúng ta, nói theo ngôn ngữ thường thấy trên báo chí là dám nghĩ, dám
làm. Vì nếu không ước mơ, không hy vọng, không thử làm, rồi đến chúng ta cũng
sẽ nằm xuống và chết.
Sau câu chúc là một lời cảm
thán. Các quốc gia phân cực thành những lực lượng đánh nhau, hận thù, giết
chóc. Những nhóm người phân chia thành nhiều lực lượng tranh giành, lật đổ, lừa
bịp, cai trị nhau, còn chúng ta bất lực hoặc bàng quan ngồi nhìn.
Điều cảm thán là: cứ tiếp tục sự bất
lực hoặc bàng quan này, chúng ta đã chọn cho mình cách kết thúc bằng sự chết.
Và để tránh sự chết hoặc một cái kết vô vị, chúng ta có thể mơ, có thể đặt niềm
hy vọng của chúng ta vào cái gì?
“Sometimes I see, how the brave new
world arrives
And I see how it thrives in the
ashes of our lives.
Oh yes, man is a fool, and he thinks
he’ll be okay, dragging on feet of clay
Never knowing he’s astray, keeps on
going anyway…”.
"A brave new world" là gì?
Đâu đơn giản mà hiểu là một thế giới mới mẻ và dũng cảm! Nếu bạn chịu khó tìm
thử trên internet thì sẽ biết "brave new world" có thể là chữ của
Shakespeare trong vở kịch "Bão tố".
Một cuốn tiểu thuyết của Aldou
Huxley xuất bản năm 1932 với tựa đề "Brave New World" có nội dung dự
báo về những tiến bộ công nghệ của tương lai, tác phẩm này sau đó đã được dịch
ra nhiều thứ tiếng. Đến khi dịch ngược lại tiếng Anh thì tựa sách có nghĩa là
"The best of all worlds", "beautiful new world",
"delightful new world", "virtuous new world", "a happy
world", "admirable new world"...
Tóm lại, "a brave new world
"cần phải hiểu là một thế giới mới, hoàn toàn được tái sinh từ đống tro
tàn nhân loại và vô cùng tốt đẹp để xứng đáng với những giấc mơ thánh thiện
nhất, hạnh phúc nhất mà chúng ta có thể nghĩ đến và chúc tặng cho nhau.
Phải rồi, nhân loại chẳng phải đang
đi vào cửa chết hay sao? Nhân loại chỉ là một gã khờ không hơn không kém, mỗi
ngày vẫn kéo lê từng bước chân đất sét mà đưa thế giới này vào cõi chết và
chẳng hề biết mình đang đi về đâu.
Ở chặng cuối con đường mà nhân loại
đã chọn, thế giới chỉ còn là những đống tro tàn. "Feet of clay" - đôi
bàn chân đất sét là cụm từ có nguồn gốc từ Cựu Ước. "Sách tiên tri
Daniel" chép rằng Nebuchadnezzar - vua cai quản xứ Babylon, mơ thấy một
bức tượng có đầu bằng vàng, chân bằng đất sét.
Bàn chân đất sét của bức tượng được
nhà tiên tri giải thích là sự yếu đuối của con người. Ngữ cảnh Kinh Thánh ấy
giúp chúng ta lý giải được cái mạo từ "the" trong cụm từ "the
brave new world".
Đó không phải là một thế giới tốt
đẹp nào. Đó chỉ có thể là thế giới tốt đẹp mà Thiên Chúa hứa hẹn trao
ban. Chỉ trong nước Thiên Chúa, con người mới có thể thánh thiện, an lành
và yêu thương nhau.
Nhưng để vào được nước Thiên Chúa,
những lỗi lầm, yếu đuối, sai lạc của con người phải chịu sự hủy diệt hoàn toàn.
Để từ tro tàn này, chúng ta sẽ nảy nở những mầm xanh tương lai.
“Seems to me now that the dreams we
had before are all dead
Nothing more than confetti on the
floor
It’s the end of a decade. In another
ten years time, who can say what we’ll find
What lies waiting down the line in
the end of eighty-nine”.
Nhưng những mầm xanh tương lai vĩnh
cửu ấy là một giấc mơ xa, xa đến nỗi không bù đắp nổi nhiều giấc mơ đã chết. Và
cái kết này chính là để lý giải "nỗi buồn không hiểu vì sao tôi buồn"
đêm 30 trong đoạn đầu tiên.
Tôi, bạn và nhiều người khác có thể
chưa bao giờ tưng bừng tung hoa giấy đón mừng năm mới, nên khó có thể hình dung
tại sao những mảnh vụn vương vãi ấy lại có thể gợi ra tan vỡ, mất mát, buồn đau
và thất vọng. Nhưng bạn hãy thử liên hệ đến Tết Việt.
Ngày chúng ta chưa có lệnh cấm đốt
pháo, xác pháo vụn cũng vương vãi đầy sân, đầy ngõ. Thuở đó, có nỗi buồn len
lén bất chợt xâm chiếm những tâm hồn trẻ thơ khi ngày xuân vừa hết mùng, hết
Tết.
Đêm nay, những vụn hoa giấy rơi vãi
trên sàn nhà như những mảnh ước mơ buồn tan tác. Rượu cạn, đêm tàn, mơ ước tận…
Vì ước mơ đã nhiều lần chết mà lời chúc đầu năm phải là thử hy vọng nhiều lần.
Mà hy vọng thôi chưa đủ, còn phải thử nuôi ý chí để mà hy vọng nữa.
(từ Internet)
(từ Internet)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét