Thứ Năm, 21 tháng 2, 2019

HAI BÀI THƠ XUÂN của ÔNG VUA Trần Nhân Tông


 Trần Nhân Tông 陳仁宗 (7 tháng 12 năm 1258 – 14 hoặc 16 tháng 12 năm 1308) là vị hoàng đế thứ ba của vương triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1278 đến năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng từ năm 1293 cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được nhiều sử gia đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ 13, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại.
                    Xuân hiểu   
      Thụy khởi khải song phi, 
      Bất tri xuân dĩ quy. 

       Nhất song bạch hồ điệp, 
       Phách phách sấn hoa phi.

CHÚ THÍCH : 
 * Thụy Khởi : là Ngủ dậy, chỉ Vừa thức giấc.
 * Khải : là Mở ra, giống như chữ KHAI ( thanh BẰNG, còn KHẢI là thanh TRẮC ).
 * Song Phi : Cánh cửa của Cửa sổ.
 * Phách Phách : là Vổ vổ(cánh), ở đây có nghĩa là Vổ Phần phật.
 * Sấn : là Nhân(dịp), ở đây có nghĩa là Hướng về...
 NGHĨA BÀI THƠ :
                              Sáng Sớm Mùa Xuân
          Vừa mới ngủ dậy, ta mở toang hai cánh cửa sổ ra... Đâu biết rằng mùa xuân đã về đến rồi !( Trông kìa,) một đôi bướm trắng nỏn nà đang vổ vổ cánh bay về các khóm hoa ( đang nở rộ !). 
DIỄN NÔM :
        SÁNG XUÂN
     Thức giấc mở song ngay,
     Xuân đến nào có hay.
     Một đôi bươn bướm trắng,
     Hướng hoa vổ cánh bay !
Lục bát :
     Vừa thức giấc, mở cửa song,
     Nào hay xuân đã về trong đất trời.
     Một đôi bướm trắng xinh tươi,
     Khóm hoa bay lượn thành đôi chập chờn.
                                                     
     Inline image

   春晚                          Xuân Vãn
               陳仁宗                          Trần Nhân Tông
年少何曾了色空     Niên thiếu hà tằng liễu sắc không, 
 春心在百花中    Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
 如今勘破東皇面    Như kim khám phá đông hoàng diện, 
 禪板蒲團看墜紅    Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.

Dịch Nghĩa:                           Xuân Muộn
     Câu 1 : 年少何曾了色空     Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,

     Từ HÀ TẰNG : HÀ là Như thế nào, là Ra Làm Sao ?. TẰNG là Từng, là Đã Từng. Nên :
     HÀ TẰNG : là một NGHI VẤN TỰ dùng theo cách PHẢN VẤN có nghĩa : Làm sao mà nói được đã từng ?
     LIỄU : là Kết thúc, là Hết.( kết liễu ). Nên...
     HÀ TẰNG LIỄU có nghĩa : Làm sao nói được là đã kết thúc...? Đưa đến nghĩa cả câu là :
     " Tuổi còn trẻ thì làm sao mà có thể nói là đã kết thúc với chuyện sắc không cho được ?!" Nghĩa bóng là :
     " Thanh niên thì làm sao mà có thể nói là không còn nghĩ đến chuyện sắc không nữa ?!". Đưa đến nghĩa của...

     CÂU 2 :    春心在百花中    Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.

      NHẤT XUÂN TÂM : có nghĩa là Một tấm lòng xuân, là Một tấm lòng son trẻ. Nghĩa cả câu là...
      " Một tấm lòng xuân đều ở trong trăm hoa " Nghĩa bóng là : " Một tấm lòng xuân ( son trẻ ),( như cánh bướm cứ xuyên suốt mê mẫm mãi ) trong trăm ( ngàn ) đóa hoa ( đẹp ).
      Câu 2 nầy còn có thể ngắt câu như thế nầy :
     " NHẤT XUÂN, Tâm tại bách hoa trung " !
     Có nghĩa :
         " Hễ đến mùa xuân là lòng cứ vướng bận mãi với trăm hoa ". Nhưng dù ngắt câu như thế nào thì nghĩa của nó vẫn ăn với Câu 1 cả !

      CÂU 3, CÂU 4 thì nghĩa đã rõ :

          
如今勘破東皇面    Như kim khám phá đông hoàng diện,
          禪板蒲團看墜紅    Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.

      KHÁM PHÁ : là Nghiệm ra được, là Thấu hiểu một cách rõ ràng. là Nhìn rõ bộ mặt thật.
      ĐÔNG HOÀNG : là Ông Hoàng ở hướng đông, ta gọi là Chúa Xuân. Ông Chúa của mùa Xuân ở hướng đông.
      THIỀN BẢN, BỒ ĐOÀN...
      THIỀN BẢN : là Miếng Ván dùng để ngồi Thiền.
      BỒ ĐOÀN : là Cái Vòng tròn được kết bằng cỏ Bồ, dùng để ngồi đọc kinh hay ngồi thiền.
        Cho nên...
        THIỀN BẢN và BỒ ĐOÀN là 2 thứ đồ đều dùng để ngồi thiền. Hai từ nầy hô ứng và nhấn mạnh cho nhau chỉ sự tu tập.
        Nghĩa của câu 3, câu 4 là :
        Như hiện nay ( Bây giờ ), đã nhìn rõ được bộ mặt thật của Chúa Xuân rồi ( Xuân đến rồi cũng sẽ đi, hoa nở rồi cũng sẽ tàn ! ). Nên, dù ngồi trên Thiền bản hay Bồ Đoàn gì cũng được ( đã tu tập thiền rồi, đã hiểu rõ nghĩa luân hồi đào thải rồi ) thì lòng rất thản nhiên mà nhìn những cánh hồng rơi rụng ! ( Nhìn hoa tàn mà không còn thương hương tiếc ngọc hay xót liễu vì hoa gì nữa cả, vì đã giác ngộ được lẽ tuần hoàn của tạo hóa ! ).

Xin được góp bài DIỄN NÔM :

          VÃN : là Tối, là muộn, là Cuối, nên...
          XUÂN VÃN là Xuân Muộn, là

                      Inline image     
                               CUỐI XUÂN

                    Tuổi trẻ sắc không sao khỏi vướng,
                    Lòng xuân quyến luyến mãi trăm hoa.
                    Nhưng nay đà tỏ khi xuân tận,
                    Hoa rụng lòng thiền chẳng xót xa !
Lục bát :
                   Tuổi xuân nào dứt sắc không,
                   Lòng xuân chìm đắm mãi trong sắc màu.
                   Như nay đà tỏ âm hao,
                   Tâm thiền hoa rụng chẳng nao lòng trần !
                                       
                                                               Đỗ Chiêu Đức.


               Xuân Vãn

                                                 Trần Nhân Tông
                 
    

                               CUỐI XUÂN


                    Tuổi trẻ sắc không sao khỏi vướng,
                    Lòng xuân quyến luyến mãi trăm hoa.
                    Nhưng nay đà tỏ khi xuân tận,
                    Hoa rụng lòng thiền chẳng xót xa !
Lục bát :
                   Tuổi xuân nào dứt sắc không,
                   Lòng xuân chìm đắm mãi trong sắc màu.
                   Như nay đà tỏ âm hao,
                   Tâm thiền hoa rụng chẳng nao lòng trần !
                                    
                                                               Đỗ Chiêu Đức.


1 nhận xét:

VỠ MẢNH TRĂNG THỀ _ Thơ Songquang và Bài Họa Của Các Thi Hửu

VỠ MẢNH TRĂNG THỀ (cho nhớ ngày giỗ lần 2 hiền thê) Thu nao em đã bỏ anh rồi! Một mảnh trăng thề vội lẻ đôi Tình đó đã sâu giờ cách biệt Ngh...