Các Bộ 4 Nét
Như lần trước, trước khi đề cặp đến bài viết mới, ta giải đáp câu đố của bài viết trước .
Thượng nhi bất thượng, 上而不上,
Hạ nhi bất hạ. 下而不下。
Thả nghi tại hạ, 且宜在下,
Bất khả tại thượng. 不可在上。
Giải Đố :
- Trên mà không trên, Chữ THƯỢNG 上 mà không có phần trên thì chỉ còn lại chữ NHẤT 一.
- Dưới mà không dưới. Chữ HẠ 下 mà không có phần dưới thì cũng chỉ còn lại có chữ NHẤT 一.
- Nhưng nên ở dưới, Trong chữ THẢ 且 và chữ NGHI 宜 thì chữ NHẤT 一 nằm ở phía dưới. Còn...
- Không thể ở trên. Trong chữ BẤT 不 và chữ KHẢ 可 thì chữ NHẤT 一 nằm ở phía trên cùng.
- Không thể ở trên. Trong chữ BẤT 不 và chữ KHẢ 可 thì chữ NHẤT 一 nằm ở phía trên cùng.
Bốn
câu đều xoay quanh chữ NHẤT 一, nên đáp án là chữ NHẤT. Nghĩa của 2 chữ
THẢ NGHI là Nhưng Nên, và nghĩa của 2 chữ BẤT KHẢ là Không Thể,
chỉ để đánh lạc hướng suy đoán mà thôi!
1. BỘ TỈ 比 :
TỈ 比 : là SO SÁNH. Đây là chữ dùng Tượng Hình để Chỉ Sự theo diễn tiến như sau :
Giáp Cốt Văn Kim Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Hình vẽ 2 người song song như đang so sánh nhau xem ai cao, ai
thấp, ai béo, ai gầy vậy. Nên TỈ là So Sánh, là Ngang Bằng, là Hơn Thua.
Từ kép của SO SÁNH là TỈ GIẢO 比較, ngoài ra ta còn gặp các từ bằng chữ
TỈ sau đây :
TỈ THÍ 比試 : là Thi đua xem ai giỏi hơn ai.
TỈ VĂN TỈ VÕ 比文比武 : So tài Văn Võ với nhau xem ai giỏi.
TỈ DỤ 比喻 : là Đem cái gần giống để so sánh cho người ta hiểu.
TỈ NHƯ 比如 : là Giống như là...
TỈ LÂN 比鄰 : là Nhà hàng xóm sát vách. Trong bài 送杜少府之任蜀川 Tống Đỗ
Thiếu Phủ chi nhâm Thục Xuyên, người đứng đầu Tứ Kiệt đời Sơ Đường là
Vương Bột đã viết :
海內存知己, Hải nội tồn tri kỷ,
天崖若比鄰. Thiên nhai nhược TỈ LÂN.
Có nghĩa :
Trong bốn bể còn có người tri kỷ với nhau, thì dù cho ...
Xa cách tận chân trời, cũng giống như là đang ở sát vách với nhau vậy !
TỈ DỰC 比翼 : là So Cánh với nhau. Ý chỉ Hai cái cánh xòe ngang với
nhau để cùng bay như thành ngữ TỈ DỰC SONG PHI 比翼雙飛, ta nói là "Chắp
Cánh Cùng Bay!" Trong bài Trường Hận Ca tả lại mối tình của Dương Quý
Phi và Đường Minh Hoàng của Bạch Cư Dị đời Đường có 2 câu rất nổi tiếng ở
gần cuối bài là:
Tại thiên nguyện tác TỈ DỰC điểu, 在天願作比翼鳥,
Tại địa nguyện vi liên lý chi. 在地願為連理枝。
Có nghĩa : Nếu ...
Ở trên trời thì nguyện được làm đôi chim liền cánh để cùng bay.
Ở dưới đất thì nguyện được làn cây liền cành để mãi mãi cùng đứng bên nhau .
Tiêu biểu cho bộ TỈ có chữ ...
TÌ 琵 : là TÌ BÀ 琵琶, một loại đàn có 4 dây của xứ Tây Vực,
truyền vào Trung Hoa vào đời Tây Hán, được chỉnh trang sửa đổi cho phù
hợp với tiết tấu văn hóa Hán tộc, qua các đời Đông Hán, Tam Quốc, Ngụy
Tấn, Lục Triều, đến Tuỳ Đường thì định hình. Trong bài "Lương Châu Từ"
rất nổi tiếng của Vương Hàn đời Đường, ta thấy Chiến binh vùng Tây Vực
còn thúc binh bằng đờn TÌ BÀ, thay vì bằng trống trận...
Bồ Đào mỹ tửu Dạ Quang bôi, 葡萄美酒夜光杯,
Dục ẩm TÌ BÀ mã thượng thôi! 欲飲琵琶馬上催 !
Có nghĩa :
Rượu ngon Bồ Đào rót vào chén làm bằng Ngọc Dạ Quang.
Vừa muốn uống, thì tiếng đàn TÌ BÀ đã giục giã lên ngựa xuất chinh rồi !
... và bài thơ được kết với 2 câu rất bất hũ mà hầu như những người yêu thơ văn đều biết ...
Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, 醉臥沙場君莫笑,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!? 古來征戰幾人回 ?
Có nghĩa :
Dù cho ...
Có vì say mà bỏ mình nơi chiến địa, thì xin bạn cũng chớ cười
nhạo ta, vì... xưa nay đi chinh chiến đã có mấy ai được trở về đâu?!
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Là hình của ngọn lửa diễn tiến lần lần thành chữ viết như hiện nay 火 ,
nên HỎA là LỬA, thường được dùng để ghép vào phía trái hoặc phía dưới
chữ. Nhưng khi nằm phía dưới HOẢ còn được viết thành 4 chấm như sau: 灬 . Có khỏang trên 400 chữ được ghép bởi bộ Hỏa ớ bên trái và khoảng 40 chữ được ghép bởi bộ Hỏa bằng 4 chấm nằm bên dưới.
Bộ HỎA 火 làm ta liên tưởng đến một lô từ có liên quan đến
phát âm giữa Tiếng Hán Cổ và Tiếng Hán Hiện Đại với Tiếng Việt Nam ta
cũng gần giống như nhau :
SAO 炒 : là Sào, âm Quan Thoại là " chǎo ", âm ch đọc như chữ "s" của ta, nên phát âm vẫn là "SÀO."
TIÊN 煎 : là Chiên, âm Quan Thoại là "jiān", âm J đọc như âm "ch" của ta, nên phát âm cũng gần giống như "CHIÊN."
NGAO 熬 : là Ngào, là Nấu cho sắc lại. Âm Quan Thoại là "ào", đọc như "ÁO" gần giống như "NGÀO."
Tiêu biểu cho bộ HỎA còn có chữ ...
NHIÊN 然 : là Nấu, là Đốt... theo chiết tự của các Cụ Đồ Nho ngày xưa như sau :
Đêm khuya NGUYỆT xế tà tà,
Bỗng nghe CHÓ cắn canh đà điểm TƯ!
Ta thấy :
Chữ NHIÊN 然 bên trái có chữ NGUYỆT 月 được viết xiên xiên tà tà, bên
phải là chữ KHUYỂN 犬 là con chó đang Sủa (cắn) trăng, và tận cùng phía
dưới là bộ HOẢ với 4 chấm (canh đà điểm tư).
... Đêm trăng thanh gió mát, cùng tụ tập dưới ánh trăng, ngâm thơ
uống rượu và "nhâm nhi" với thịt chó đang bốc khói trên lò lửa, thì còn
gì khoái trá hơn nữa?! Nên ...
NHIÊN khi là Trợ từ thì có nghĩa là: Đúng vậy, là Hiển
Nhiên là thế, là Tự Nhiên, là Naturellement, là Naturally... Khi dùng để
chuyển tiếp thì có nghĩa là: Rồi Sau Đó .... là Nhiên Hậu 然後....
NHIÊN 然 bây giờ chỉ có nghĩa là NẤU, là ĐỐT khi được gia
thêm một bộ HỎA 火 ở bên trái nữa như sau 燃, như trong từ NHIÊN LIỆU 燃料
là Chất Đốt vậy...
3. BỘ ĐÃI 歹 :
ĐÃI 歹 :
là Xương Tàn, là Xấu xa, Chết chóc. Bộ ĐÃI gồm có bộ NHẤT 一 và bộ TỊCH 夕
họp lại mà thành. NHẤT TỊCH 一夕 là một đêm. Vâng, qua một đêm, có biết
bao vật đổi sao dời, xương cũng tàn, cốt cũng rụi, người đà chết, tốt
trở thành xấu... Ta có từ:
HẢO ĐÃI 好歹 : là Tốt Xấu.
ĐÃI ĐỘC 歹毒 : là Độc ác, Xấu xa, Nham hiểm.
ĐÃI ĐỒ 歹徒 : là Kẻ Xấu, là Người Gian ác.
Tiêu biểu cho bộ ĐÃI có chữ :
TỬ 死 : là Chết là Hồn lìa khỏi xác, theo như diễn tiến của chữ Tượng Hình và Hội Ý như sau:
甲骨文 | 金文 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn và Kim Văn là Hình người (bộ NHÂN 人) bên phải và bộ
ĐÃI 歹 là Xương tàn bên trái, hàm ý là khi linh hồn của con người đã lìa
khỏi nắm xương tàn, nên TỬ là CHẾT, TỬ là trái với SINH, là Không còn
sinh khí nữa, kể cả Sinh Thực Vật cũng thế!
Ngoài nghĩa TỬ VONG 死亡 là Chết Chóc ra, ta còn có ...
TỬ CẢNH 死景 : là Cảnh chết, cảnh giả không sinh động.
TỬ GIÁC 死角 : là Góc chết, là Cái thế không có lối ra.
TỬ còn có nghĩa là Cố Chấp, Kiên Trì, như ...
TỬ THỦ 死守, TỬ CHIẾN 死戰, TỬ TÂM 死心 :Cố chấp giữ vững lòng mình, quyết không thay đổi!
TỬ HÔI PHỤC NHIÊN 死灰復燃 : TỬ HÔI là Tro đã chết, lửa đã tắt nên Tử
Hôi Phục Nhiên là "tro tàn lại cháy." Chuyện gì đó trong qúa khứ tưởng
chừng như đã lãng quên mất rồi, bỗng có cơ duyên nào đó đưa đến làm cho
nhớ lại, ta nói là "Khơi dậy đống tro tàn của dĩ vãng!"
4. BỘ ĐẨU 斗 :
ĐẨU 斗 :
là Cái Đấu : Đơn vị đo lường ngày xưa, một Đấu gồm có mười Thăng. Giới
bình dân Miền Nam gọi là Cái TÁO : Một Táo có 20 lít. "TÁO" là ĐẨU phát
âm theo tiếng Triều Châu, còn gọi là THÙNG, tương đương với THÚNG, hai
Thúng vô một GIẠ, tương đương 40 lít, bằng 2 Táo.
ĐẨU 斗 vừa là đơn vị đo lường lương thực, vừa là đơn vị đo lường chất lỏng nữa, như câu thơ của Đổ Phủ :
Lý Bạch ĐẨU tửu thi bách thiên,
李白斗酒詩百篇,
李白斗酒詩百篇,
Có nghĩa :
Lý Bạch uống vào một ĐẤU rượu sẽ cho ra đến 100 bài thơ lận.
Theo Tấn Thư-- Đào Tiềm truyện. Thì Đào Uyên Minh nói là: "Ta
không thể vì 5 ĐẤU gạo mà phải hạ mình luồn cúi", nên đã treo ấn từ quan
về ở ẩn. ( 吾不能为五斗米折腰。——《晋书·陶潜传》Ngô bất năng vị ngũ đẩu mễ chiết yêu--
Tấn Thư, Đào Tiểm Truyện) Vì vậy mà người đời còn gọi ông là "Ngũ đẩu mễ
tiên sinh" 五斗米先生 hay Ngũ Liễu Tiên Sinh 五柳先生 ".
ĐẨU còn có nghĩa là SAO ở trên trời, từ kép là TINH ĐẨU 星斗, ta thường nghe nhắc đến Nam Đẩu 南斗, Bắc Đẩu 北斗.
Tiêu biểu cho bộ ĐẨU có chữ
LIỆU 料 : là Lường, là chữ Hội Ý, gồm chữ MỄ 米 là Gạo ở bên trái và
chữ ĐẨU là Đấu ở bên phải ghép lại mà thành. Ý chỉ dùng Đấu để đong Gạo
nên LIỆU là Tính Toán, là Phỏng đoán, ta có từ...
LIỆU ĐỊNH 料定 : là Ước đoán, ta cũng hay nghe...
LIỆU Việc như Thần : là Đoán các việc sẽ xảy ra một cách thật chính xác, là Liệu sự như thần 料事如神.
LIỆU còn có nghĩa là Chất Liệu 質料, Vật Liệu 物料, Nguyên Liệu 原料...
Đến đây, ta cần phân biệt rõ 2 từ: Nguyên Liệu và Nhiên Liệu như sau :
NGUYÊN LIỆU 原料 : Còn gọi là NGUYÊN VẬT LIỆU, là những đồ đạc để làm ra
một cái gì đó. Ví dụ: Bột, đường,Trứng... là Nguyên liệu để làm ra một
cái Bánh. Cây gỗ, Đinh, Sơn... là Nguyên Liệu để làm ra một cái Bàn,....
NHIÊN LIỆU 燃料 : là Chất Đốt, là Vật liệu dùng để đốt cháy, như : Xăng, Dầu, Than, Củi, Rơm Rạ ...
5. BỘ ÁCH 厄 :
ÁCH 厄 :
là Xấu Xa, Tai Nạn. Đây là một Bộ mới theo Tân Hoa Từ Điển của Bắc
Kinh, vốn nằm trong bộ HÁN 厂, tách riêng thành Bộ theo nhu cầu của chữ
viết hiện đại. Các từ thường gặp của bộ ÁCH là:
TAI ÁCH 災厄 : là Tai nạn rủi ro xấu xa.
ÁCH VẬN 厄運 : là Vận xấu, là Thời vận Xui xẻo.
Người Việt ta có câu "Ách giữa đàng mang vào cổ" chỉ sự xui xẻo bá
vơ ở đâu đó, bỗng dưng mình phải chuốc lấy một cách oan uổng!
Một từ mới của chữ ÁCH là từ ngoại lai mới được dịch:
ÁCH QUA ĐA NHĨ 厄瓜多爾 : là từ dịch tên một nước ở phía bắc của Nam
Mỹ Châu: ECUADOR mới vừa bị động đất đến 7.8 A. Qủa là TAI ÁCH không
phải trên trời giáng xuống mà do dưới đất đưa lên!
Tiêu biểu cho bộ ÁCH có chữ...
NGUY 危 : là Không An Toàn như Nguy Hiễm 危險, Nguy Nan 危難, Nguy Cơ 危機... Chữ NGUY làm ta nhớ đến trường Bộ Binh Thủ Đức với khẩu hiệu :
CƯ AN TƯ NGUY 居安思危 : Khi ở nơi an lành yên ổn, cũng phải luôn luôn
nghĩ tới những nguy hiễm có thể đang rình rập xung quanh (để mà đề
phòng).
6. BỘ PHƯƠNG 方 :
6. BỘ PHƯƠNG 方 :
PHƯƠNG 方 :
là VUÔNG, 4 góc đều là 90 độ, gọi là CHÁNH PHƯƠNG 正方 (Hình Vuông). Sáu
mặt đều là hình vuông như hột Xí Ngầu, gọi là LẬP PHƯƠNG 立方 (Khối Vuông)
Trong Toán học ta có từ Bình Phương 平方, Khai Phương 開方.
Về mặt Sự việc ta có từ Phương Hướng 方向, Phương Diện 方面.
Về Biện pháp thì ta có từ Phương Thức 方式, Phương Pháp 方法.
Chi riêng một vùng ta có từ Địa Phương 地方, Phương Ngôn 方言 : là
Tiếng nói của riêng của một vùng nào đó, như tiếng Tiều, tiếng Hẹ, tiếng
Quảng... của Trung Hoa, tiếng Mường, tiếng Mán, tiếng Ra-Đê... của Việt
Nam ta vậy .
Tiêu biểu cho bộ PHƯƠNG có chữ ...
THI 施 : là Làm, như : THI CÔNG 施工 , THI HÀNH 施行, THI TRIỂN 施展, THI THỐ 施措 ...
Khi đọc là THÍ (dấu sắc) thì có nghĩa là Ban Cho, như: BỐ THÍ 布施, THÍ
THỰC 施食 : là Cho Ăn, nhưng Ban Ơn thì lại gọi là THI ÂN 施恩, có thể là
do thói quen ngôn ngữ nên ta có thành ngữ : THI ÂN BỐ ĐỨC 施恩布德. Thi ân
bất cầu báo 施恩不求報: là Ban ơn mà không cần (người ta) phải báo đáp.
Xin được nhắc lại lời dạy của Đức Khổng Phu Tử là :
Kỷ sở bất dục, Vật THI ư nhân.
己所不欲,勿施於人。
己所不欲,勿施於人。
Có nghĩa :
Điều gì mà mình không muốn, thì đừng làm hoặc ban cho kẻ khác!
7. BỘ PHỤ 父 :
PHỤ 父 : là CHA : Người lao động chính của gia đình theo diễn tiến của chữ viết như sau :
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn đến Đại Triện là hình tượng của một người đang cúi
mình dang hai tay về phía trước với một cây cọc dùng để xăm lổ để bỏ
hạt giống xuống gieo trồng. Đó là hình tượng của người cha cần cù trồng
trọt để nuôi sống gia đình nên ...
PHỤ là CHA, là những bậc đáng hàng Cha Chú, như Hương Thân Phụ Lão 鄉親父老 là những bậc trưởng thượng trong làng xóm.
BÁ PHỤ 伯父 là Bác, THÚC PHỤ 叔父 là Chú, CỬU PHỤ 舅父 là Cậu, SƯ PHỤ 師父 là Thầy ...
PHỤ còn dùng để gọi người già, người cao niên, như :
PHỤ còn dùng để gọi người già, người cao niên, như :
ĐIỀN PHỤ 田父 : là Lão Nông ,là ông Nông dân già.
NGƯ PHỤ 漁父 : là Ông Câu. là Ngư Ông.
Tiêu biểu cho bộ PHỤ có chữ ...
GIA 爺 : là Ông Nội. Thường gọi liền 2 chữ là GIA GIA 爺爺 !
Ngày xưa, gọi những người giàu có là LÃO GIA 老爺, người ăn kẻ ở
trong nhà gọi chủ nhà cũng bằng LÃO GIA 老爺 (Ông Chủ), con trai của chủ
nhà là THIẾU GIA 少爺 (Cậu Chủ), con gái chủ nhà là TIỂU THƠ 小姐 (Cô Chủ
\).
GIA còn dùng để gọi người hàng xóm cao niên là ĐẠI GIA 大爺,
như dân Miền Bắc gọi là CỤ, còn dân Miền Nam gọi là BÁC vậy, như : LÝ
ĐẠI GIA 李大爺 , Miền Bắc gọi là CỤ LÝ, Miền Nâm gọi là BÁC LÝ vậy!
Chữ
GIA 爺 nầy khác với chữ GIA 家 là NHÀ. Các ĐẠI GIA 大家 ở Việt Nam hiện nay
là những NHÀ GIÀU CÓ LỚN, có nhiều người còn rất trẻ, khác với dân cùng
đinh khố rách áo ôm sống lang thang đầu đường xó chợ!
8. BỘ QUA 戈 :
QUA 戈 : là Một loại vũ khí ngày xưa, làm bằng đồng sắt, có cán dài, dùng để đánh trận, theo chữ viết Tượng Hình như sau:
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Đây là một loại vũ khí dùng cho kỵ binh, đầu có móc nhọn, đuôi có cán dài để tiện việc đánh nhau trên lưng ngựa.
QUA thường đi liền với CAN 干, cũng là một loại vũ khí xưa, vừa dùng
để tấn công vừa dùng để chống đỡ, theo diễn tiến chữ viết như sau :
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 |
繁体楷书
|
Ta thấy :
Theo Giáp Cốt Văn, rồi Kim Văn, Đại Triện, và Tiểu Triện : CAN 干 là
vũ khí có 2 chỉa phía trước, nên vừa có thể dùng để tấn công, mà cũng
có thể dùng để đở khi địch nhân chém tới. Đến chữ Khải thì 2 chỉa phía
trước được thay bằng một gạch Ngang, và nghĩa của chữ CAN 干 cũng theo
đó mà biến đổi. Nên CAN bây giờ có nghĩa như chữ THUẪN 盾 là cái MỘC dùng
để đở khi đánh nhau. Vì thế mà ...
CAN QUA 干戈 : là Một Đâm Một Đở. Nghĩa là Đánh Nhau, là Chiến Tranh, nên "Dấy Động CAN QUA" là "Phát Động Chiến Tranh." Khác với nghĩa của MÂU THUẪN 矛盾, mặc dù nghĩa từng chữ lại giống nhau, vì ...
MÂU 矛 cũng là vũ khí để đâm, và THUẪN 盾 cũng là cái Mộc để đở. Theo tích sau đây :
Theo sách Hàn Phi Tử - chương Nan Nhất: Có người ra chợ bán Mâu,
rao rằng Mâu của ông ta rất bén nhọn, bất cứ vật gì cứng tới đâu cũng có
thể đâm lủng được. Hôm sau, ông ta lại mang ra bán một cái Thuẫn, và
lại rao rằng: Thuẫn nầy rất cứng chắc, không có vật bén nhọn nào có
thể đâm lủng được. Có người hỏi ông rằng: Thế lấy cây Mâu hôm qua của
ông có thể đâm lủng được cái Thuẫn này hay không?! Người bán MÂU và
THUẪN cứng họng không trả lời được. Mới hay, hai sự việc cực đoan thì
không thể song hành tồn tại với nhau! Cho nên...
MÂU THUẪN 矛盾 : là Hai hoặc nhiều sự việc trái ngược hẵn nhau, không thể nào tồn tại song song với nhau được.
Tiêu biểu cho bộ QUA có 4 chữ mà ta phải phân biệt, đó là : MẬU 戊, NHUNG 戎, TUẤT 戌, THÚ 戍 . Phân biệt như sau :
MẬU 戊 : Bộ QUA 戈 thêm một nét phẩy bên trái. MẬU là ngôi thứ 5 của Thiên Can : Giáp, Ất, Bính, Đinh, MẬU ...
NHUNG 戎
: Nét phẩy bên trái của bộ QUA 戈 có thêm một gạch ngắn cắt ngang. NHUNG
là từ gọi chung Vũ Khí ngày xưa, nghĩa rộng NHUNG là Binh Lính, gọi là
BINH NHUNG 兵戎. Quần áo của Lính mặc ngày xưa gọi là NHUNG Y 戎衣 hoặc
NHUNG TRANG 戎裝. Người cầm đầu chỉ huy quân lính gọi là NGUYÊN NHUNG 元戎,
tương đương với từ NGUYÊN SOÁI 元帥.
TUẤT 戌
: Nét phẩy bên trái của bộ QUA 戈 có thêm một nét ngắn nằm bên trong.
TUẤT là Ngôi thứ 11 của Thập Nhị Địa Chi : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ,
Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, TUẤT và Hợi.
THÚ 戍
: Nét phẩy bên trái của bộ QUA 戈 có thêm một chấm xéo ở bên trong. THÚ
là Sự Phòng Thủ của Quân Đội. Lính THÚ là Lính biên phòng ngày xưa, từ
Hán Việt là THÚ TỐT. BIÊN THÚ 邊戍 là Đồn lính đóng ở nơi biên giới xa
xôi.
9. BỘ HỘ 户 :
HỘ 户 : là CỬA, là Một Cánh Cửa. Theo diễn biến của chữ viết Tượng Hình như sau:
|
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn và Kim Văn Đại Triện đều là hình của MỘT CÁNH CỬA ở
một bên như nửa chữ MÔN 門 bên trái. Nên HỘ 戶 là Cánh cửa mà cũng là Cửa
nữa, hơn thế, nghĩa rộng của chữ HỘ 戶 là NHÀ, như trong từ HỘ KHẨU 戶口 và
Thành ngữ:
THIÊN GIA VẠN HỘ 千家萬戶 : là chỉ chung DÂN CHÚNG với Ngàn Vạn Nóc Gia, với Muôn Ngàn Nhà Cửa.
Thành ngữ gây đau khổ nhất cho các cặp trai gái yêu nhau từ xưa
tới nay là "MÔN ĐĂNG HỘ ĐỐI 門當戶對" là 2 Nhà có Cửa Ngõ ngang bằng với
nhau, tức là phải cùng Giàu hay cùng Quyền Thế như nhau, nếu không thì
không thể "Làm Suôi" với nhau được! Trong bài thơ "Thắm thoát 50 năm" kể
lại mối tình đầu thuở học sinh của tôi có vế thơ sau:
... Ấy thế, tình ta sớm nhạt màu,
Người đời miệng tiếng lắm xôn xao.
HỘ ĐỐI MÔN ĐĂNG muôn kiếp vẫn...
là rào ngăn cách kẻ yêu nhau!
Có 3 hình thức của chữ HỘ như sau : 户, 戶, và 戸 .
Ngoài nghĩa là CỬA là NHÀ ra, HỘ còn có nghĩa Hệ Phái, Bộ Tộc hay Phe Nhóm nào đó.
Đọc tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, ta hay thấy từ "Thanh Lý Môn Hộ"
là "Làm sạch môn phái", tức là "Giải quyết vấn đề rắc rối riêng của nội
bộ môn phái đó" mà người ngoài không thể can thiệp vào được.
Cái gì có Cửa ra vào thì cũng được gọi là HỘ, như :
ÂM HỘ 陰戶 : là chỉ Cửa Mình của phái nữ . Nhưng ...
DƯƠNG HỘ 陽戶 : thì lại là Nhà cất xây về hướng mặt trời mọc. Như 2
câu thơ của Viên Hoằng Đạo đời Minh, trong bài " Hí đề Đạo Sĩ Phục" là
: 明 袁宏道 《戏题道士洑》诗:
陽戶開北面, DƯƠNG HỘ khai bắc diện,
東流水西還。 Đông lưu thuỷ tây hoàn.
Có nghĩa :
Đáng lẽ ... Nhà phải hướng về đông thì lại xây mặt về hướng Bắc,
Nước đều chảy về đông thì lại ngược về Tây.
Tiêu biểu cho bộ HỘ có chữ ...
PHÒNG 房 : là Cái Phòng trong nhà. Như : Khách Phòng 客房 là
Phòng Khách. Thư Phòng 書房 là Phòng Đọc sách. Động Phòng 洞房 là Phòng dành
cho vợ chồng mới cưới ....
PHÒNG là đơn vị hành chánh của Việt Nam ta, như Phòng Kế Toán,
Phòng Hành Chánh, Phòng Hành Quân... Ngoài "Chánh Văn Phòng" là Bà Xã ở
nhà ra, ông nào "chiụ chơi" thì còn có thêm một "Phòng Nhì" ở bên ngoài
nữa!
10. BỘ VÔ 无 :
VÔ 无 :
là KHÔNG CÓ, là trái với HỮU 有 là CÓ. Đây là chữ VÔ cổ và là chữ VÔ 无
giản thể hiện nay. Chữ VÔ phồn thể (đủ nét) như thế nầy 無. VÔ nầy là
"Thanh tịnh VÔ vi 清靜無為" của Đạo Lão. Thành ngữ mà ta thường gặp là :
VÔ CÔNG BẤT THỤ LỘC 無功不受祿 : Có nghĩa là "Không có bỏ ra công sức gì
hết thì không dám nhận bổng lộc." Câu nầy dùng trong trường hợp: Khi
khổng khi không có ai đó tặng qùa cho mình mà không biết rõ lý do. Sợ
người ta có dụng ý xấu, ta có thể từ chối nhận qùa bằng câu trên.
Chữ VÔ còn được đọc là MÔ trên miệng các Hoà Thượng Ni Sư khi niệm Phật hiệu :
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT 南無阿弥陀佛 !
VÔ BIÊN VÔ CƯƠNG 無邊無疆 : là Không có biên giới cương lĩnh gì cả, là Mênh mông vô tận.
VÔ QUỸ VU TÂM 無愧于心 : là Không thẹn với lòng.
Trong Tăng Quảng Hiền Văn có một câu rất hay là :
Vô cầu đáo xứ nhân tình hảo, 無求到處人情好,
Bất ẩm tòng tha tửu giá cao. 不飲從他酒價高。
Câu nầy có 2 nghĩa :
1. Không có yêu cầu là khắp nơi tình cảm của mọi người đều tốt với mình, (Ở sao cho vừa lòng hết mọi người cho được!?)
Không thèm uống những thứ rượu mà họ tự Ý nâng cao gía lên theo Ý họ. (Mặc cho họ làm "chảnh")
2. Không có đòi hỏi gì cả (Vô cầu) thì khắp nơi nhân tình đều tốt với mình hết. Con người dễ chịu thì ai cũng tốt với mình cả!
Không nhậu nhẹt (Bất ẩm) thì mặc cho gía rượu muốn lên cao tới đâu thì lên (đâu có ăn thua gì tới mình đâu!)
Vô cầu đáo xứ nhân tình hảo, 無求到處人情好,
Bất ẩm tòng tha tửu giá cao. 不飲從他酒價高。
Câu nầy có 2 nghĩa :
1. Không có yêu cầu là khắp nơi tình cảm của mọi người đều tốt với mình, (Ở sao cho vừa lòng hết mọi người cho được!?)
Không thèm uống những thứ rượu mà họ tự Ý nâng cao gía lên theo Ý họ. (Mặc cho họ làm "chảnh")
2. Không có đòi hỏi gì cả (Vô cầu) thì khắp nơi nhân tình đều tốt với mình hết. Con người dễ chịu thì ai cũng tốt với mình cả!
Không nhậu nhẹt (Bất ẩm) thì mặc cho gía rượu muốn lên cao tới đâu thì lên (đâu có ăn thua gì tới mình đâu!)
Tiêu biểu cho bộ VÔ 无 có chữ:
KÝ 既 : là ĐÃ, là RỒI. Theo diễn tiến của chữ viết về Chỉ Sự như sau đây:
甲骨文 | 金文 | 金文大篆 | 小篆 | 繁体隶书 |
Ta thấy :
Theo như Giáp Cốt Văn, bên trái là hình của một bàn để thực phẩm,
bên phải là hình của một người đang quay lưng bỏ đi, như đã ăn rồi. Nên
KÝ là chỉ "Động Tác Đã Hoàn Thành." Phần sau chỉ là diễn tiến của chữ
viết để hình thành chữ KÝ của hiện nay mà thôi.
Thành ngữ mà ta thường gặp là:
KÝ VÃNG BẤT CỨU 既往不咎 (究): Có nghĩa, Chuyện gì đó ĐÃ qua rồi thì không truy cứu nữa. Ý là: Chuyện đã qua rồi thì hãy bỏ đi.
KÝ VÃNG BẤT CỨU 既往不咎 (究): Có nghĩa, Chuyện gì đó ĐÃ qua rồi thì không truy cứu nữa. Ý là: Chuyện đã qua rồi thì hãy bỏ đi.
KÝ NHIÊN, KÝ NHI 既然, 既而 : là Đã Thế, Đã Thế Thì...
KÝ còn có nghĩa là ngày 16 âm lich. Ngày 15 là ngày VỌNG, còn 16 là
ngày KÝ. NAM KỲ Lục Tỉnh bà con hay nói "15 trăng tròn, 16 tròn
trăng"... Mở đầu bài Tiền Xích Bích Phú, Tô Đông Pha đời Tống viết:
Nhâm Tuất chi thu, thất nguệt KÝ VỌNG, Tô Tử dữ khách phiếm chu... 壬戌之秋,七月既望,蘇子與客泛舟。。。
Có nghĩa:
Mùa thu năm Nhâm Tuất, ngày mười lăm mười sáu của tháng bảy, Ông Tô cùng khách thả thuyền để dạo chơi...
Nhâm Tuất chi thu, thất nguệt KÝ VỌNG, Tô Tử dữ khách phiếm chu... 壬戌之秋,七月既望,蘇子與客泛舟。。。
Có nghĩa:
Mùa thu năm Nhâm Tuất, ngày mười lăm mười sáu của tháng bảy, Ông Tô cùng khách thả thuyền để dạo chơi...
Để kết thúc bài viết hôm nay, mời tất cả cùng nghiền ngẫm câu đố chữ sau đây:
Nhất tịch linh quang chiếu thái hư,
一夕靈光照太虛,
Hóa thân nhân khứ dã hà như ?
化身人去也何如?
Sầu lai thối khước tâm đầu hỏa,
愁來退卻心頭火,
Tu đắc phàm tâm nhất điểm vô!
修得凡心一點無 !
Có nghĩa :
Rồi một đêm nào đó, ánh linh quang sẽ chiếu vào cõi thái hư.
Đã hóa thân rồi, người cũng đã đi rồi, thì còn như thế nào đây?.
Sầu đến làm sao cho lửa trong lòng lụi (tắt) hết,
Tu sao cho đạt được một chút lòng phàm cũng không còn.
Nhất tịch linh quang chiếu thái hư,
一夕靈光照太虛,
Hóa thân nhân khứ dã hà như ?
化身人去也何如?
Sầu lai thối khước tâm đầu hỏa,
愁來退卻心頭火,
Tu đắc phàm tâm nhất điểm vô!
修得凡心一點無 !
Có nghĩa :
Rồi một đêm nào đó, ánh linh quang sẽ chiếu vào cõi thái hư.
Đã hóa thân rồi, người cũng đã đi rồi, thì còn như thế nào đây?.
Sầu đến làm sao cho lửa trong lòng lụi (tắt) hết,
Tu sao cho đạt được một chút lòng phàm cũng không còn.
Bốn (4) câu trên nhằm đố một từ gồm hai (2) chữ có liên quan đến việc tu hành.
Xin mời các bạn hãy "ra tay" thử xem. Đố thêm vài lần nữa, các bạn sẽ quen thôi, và sẽ rất dễ dàng mà đoán được chữ được đố như chơi!
Xin mời các bạn hãy "ra tay" thử xem. Đố thêm vài lần nữa, các bạn sẽ quen thôi, và sẽ rất dễ dàng mà đoán được chữ được đố như chơi!
Đỗ Chiêu Đức
Mời xem :Chử Nho Dễ Học Bài 11
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét