Mặt trời đã lên nửa con sào, dân làng đi làm đồng
hết, tưởng trong quán không có ai. Té ra có cả mấy người đang ngồi lố
nhố trên chiếc phản kê phía trong quán. Lão Sướng hơi giật mình nhận ra
những gương mặt quen thuộc, vội cất tiếng: “chào các ông ạ”. Người ngồi
trong cùng, dựa lưng vào tường, quay mặt ra phía ngoài là Tưởng – Bí
thư. Hai bên là Dần, Chấn – trưởng, phó công an xã. Chấn còn là cháu họ
của lão, gọi lão bằng chú. Một người ngồi quay lưng ra cửa quán, không
cần nhìn mặt, lão Sướng cũng nhận ra đó là Lý – chủ tịch. Bốn người
không ai để ý đến lão. Hình như họ đang mải đang chơi bài.
Mụ cả Nẫm đưa cho lão Sướng gói thuốc lào và nhận
từ tay lão tờ giấy bạc lẻ, nhàu nát còn ấm hơi người. Chiếc ti vi treo
trong quán vọng ra từng tràng những tiếng hò reo náo nhiệt. Đang có
tường thuật bóng đá của giải ngoại hạng Anh. Lão Sướng quay người chui
ra khỏi quán, bước về phía chiếc xe, loay hoay mở nút sợi dây thừng.
Phía trong quán, chủ tịch Lý vừa quật một quân bài xuống chiếu, vừa hỏi
bí thư Tưởng:
- Thế nào bí thư? Trận này tôi bắt Ác-se-nan, chấp một trái đấy.
Bí thư Tưởng đang nhìn hút theo con bò của lão Sướng, buột miệng nói:
- Được thôi, thì tôi bắt Chen-xi vậy.
Chủ tịch Lý hỏi tiếp.
- Nhai gà, vịt mãi cũng chán mồm. Tuần trước đánh
cược con chó nhà lão Cử, anh em được bữa cờ tây ra trò. Trận này bí thư
cược gì nào?
Vẫn mải nhìn con bò cùng lão Sướng đang thong thả rời khỏi tầm mắt, bí thư Tưởng lại buột miệng nói:
- Cược con bò kia của lão Sướng. Chắc không?
Chủ tịch Lý ngoái đầu nhìn cái phần mông núng
nính của con bò vừa đi khuất, nuốt nước bọt đánh ực một cái, cũng buột
miệng reo lên:
- Ối Trời! Được con bò ấy mà thịt thì tuyệt hảo.
Chắc quá. Nào – bắt tay. Thằng Dần và thằng Chấn chứng kiến nhé. Phen
này có thịt bò ngon chén rồi.
Trưởng, phó công an xã Dần, Chấn thấy vụ cá cược
có mùi hấp dẫn, lập tức hưởng ứng. Bốn người hỉ hả bắt tay nhau. Mụ cả
Nẫm cũng xen vào:
- Tôi đăng kí toàn bộ bạc nhạc đấy nhé, với lại bốn cái cẳng. Bấy nhiêu làm phở chín cũng bán được cả tuần chứ không ít…
Trưởng công an Dần nhanh nhảu ngắt lời mụ:
- Bạc nhạc thì được. Song bốn cẳng thì mụ đừng có mà nằm mơ. Cái đó để anh em vất vả chúng nó nhậu.
Phó công an Chấn tỏ ra hăng hái:
- Em xin chịu trách nhiệm về bộ da. Bộ da ấy tha
hồ lành lặn, chắc chắn chất lượng cao. Bọn thuộc da Vĩnh Cửu trên huyện
cứ gọi là lác mắt hột. Cái này bán mới được giá. Năm ngoái ta kiếm được
năm bộ cả da trâu lẫn da bò, mang bán cho họ thành ra quen biết từ đó
đến nay, lại học được chút kiến thức xem da các kiểu.
Bí thư Tưởng gật gù:
- Lâu lắm không được ăn thịt của giống bò tuyền
ăn cỏ. Cái thứ thịt bò nuôi bằng thức ăn tăng trọng bây giờ ăn như thịt
giả. Thịt tái kiểu gì mà nhợt nhạt, rũ rượi như thịt thằng chết trôi,
nước máu chảy ra ều ễu. Thịt ấy nếu không dai ngoách thì cũng bở như đất
vách, ăn tuyệt chẳng thấy cái mùi gây gây, béo ngậy đặc trưng của bò
đâu.
Chủ tịch Lý nịnh khéo:
- Cả xã đều kính nể kiến thức về bò của bí thư.
Đến như mấy anh lãnh đạo huyện, được nghe cái lý luận phân tích về bò
của bí thư còn thèm rỏ rãi mà bảo: “Loại bò ấy chỉ có ở thời bao cấp,
thuở còn hợp tác xã. Chứ thời này, kiếm đâu ra thứ thịt bò ăn tuyền cỏ
ấy mà xơi…”
Bí thư Tưởng được thể, bèn tiếp tục bài giảng:
- Các ông nên biết, thịt loại bò ăn tuyền cỏ này
tươi rất lâu. Cứ móc cả tảng mà treo lên xà nhà, để đến tận ngày hôm
sau, các cơ trong tảng thịt vẫn còn giật giật, giật giật… Sờ tay vào có
cảm giác nó dính dính, hút hút, mặt thịt đỏ sậm, lóng lánh ánh kim. Phía
bên dưới tuyệt không một giọt nước máu nào nhỏ xuống. Thịt ấy thái
mỏng, ngang thớ mà tái thì tuyệt cú, ăn vừa ngọt vừa giòn, cứ như thể nó
tan ra trong miệng. Tảng càng lớn, tươi càng lâu. Thịt tươi hút nước
vào nên vừa khô vừa dính, đến khi nào tiết nước máu ra là hết tươi. Thịt
bò kị nhất cắt vụn, cắt vụn không tươi lâu. Phải ăn đến đâu, xẻo đến
đấy mà thái. Nếu tay chân, dao thớt cứ sạch khô, không hề dây một giọt
máu nào, thì thịt như thế mới đạt tiêu chuẩn.
Mọi người vừa nghe vừa thèm đến nóng cả mặt. Chủ tịch Lý bái phục:
- Vậy bất luận ai thắng cược, thì hai quả mông cứ
xin nhường nhà bí thư. Nhà tôi xin tảng vai vậy. Bắp biếc chia cho cánh
Công an, Mặt trận. Đầu, đuôi chia Hội phụ nữ… Riêng bộ lòng đánh chén
tại chỗ.
Bí thư Tưởng tỏ ra khiêm tốn:
- Được cái mông ấy thì nhà tôi chỉ cần một quả
cũng thừa mứa ra rồi. Quả mông kia đem biếu các anh lãnh đạo huyện, các
anh ấy cũng rất thèm xơi loại thịt bò thời bao cấp như thế này. Ăn những
thứ thời bao cấp hiện đang là một cái mốt ẩm thực. Vả lại các ông quên
là lâu nay ta chẳng “nói năng” gì, huyện đang có “vấn đề” với ban lãnh
đạo xã ta à. Liệu có “yên” vị mà mơ thịt bò ăn cỏ được mãi không?
Trưởng công an Dần hớn hở vừa quật đánh đét một quân bài xuống chiếu, vừa nói:
- Nhất trí với ý kiến của cả chủ tịch lẫn bí thư. Vậy xin bí thư cho phương hướng giải quyết, đồng thời quyết định ngày ạ.
Bí thư Tưởng kết luận.
- Cái ấy giao cho bên công an, dân phòng các anh
lo, triển khai ngay ngày mai càng tốt, không nên hoãn sự sung sướng lại.
Nhớ lên kế hoạch thật chu đáo, phải làm sao cho nhân dân luôn tâm phục,
khẩu phục mới được…
Bất ngờ phó công an Chấn lại tỏ ra ngập ngừng:
- Em thấy có chỗ hơi khó. Trận trước, con chó của
lão Cử thì ta vu cho là chó dại, bắt giết thịt thì được rồi. Nhưng còn
con bò này… chả lẽ bảo nó là bò điên?
Trưởng công an Dần lập tức ngắt lời:
- Chú bởi thật thà nên kém sáng kiến. Chú không
biết lão Sướng chuyên trị ngủ trong xe, mặc cho con bò tự kéo về làng
hay sao? Thế thì có khó gì, bò cũng phải chấp hành luật lệ giao thông
chứ… Thôi! Chú vì có họ với lão Sướng nên việc ấy để anh giải quyết. Cứ
làm đúng tinh thần chỉ đạo của bí thư là được rồi.
Lão Sướng đánh chiếc xe bò vào tận trong làng,
nhà lão ở cuối xóm Con Chó. Làng xóm vắng tanh vì người lớn ra đồng, trẻ
con đi học, chỉ có những ông già, bà lão ở nhà. Về đến nhà, lão tháo
con bò ra khỏi xe, dắt nó ra sau vườn, cột dưới gốc một cây nhãn, quẳng
cho nó một ôm cỏ rồi rửa ráy chân tay, vào nhà chuẩn bị đánh một giấc
ngủ bù đến trưa. Trước khi đi ngủ, lão không quên kéo một điếu thuốc lào
theo thói quen. Sáng nay, lúc ra khỏi chợ lão mới nhớ ra rằng gói thuốc
trong người đã hết, nên mới phải dừng lại mua ở quán mụ cả Nẫm.
Ngày nào cũng vậy, cứ ba giờ sáng là lão Sướng
thức dậy, đánh chiếc xe bò của mình chở hàng cho mấy bà thầu rau, quả
trong làng lên chợ Huyện bán. Chợ cách làng năm sáu cây số, chiếc xe
phải đi mất gần hai tiếng. Quãng đường đầy những ổ voi, ổ bò mà lão đã
thuộc nằm lòng. Từ làng lên tới chợ có đúng tám mươi mốt cái ổ voi như
thế. Mỗi khi lăn bánh qua, chiếc xe bị quăng bên này, quật bên kia như
muốn hất mọi thứ đang cõng trên lưng xuống đường. Lão gọi đó là những
cái xóc. Tám mươi mốt ổ voi là tám mươi mốt cái xóc. Lúc đi trời còn
tối, gặp những cái xóc ấy lão phải để ý giữ cho hàng hoá khỏi rơi, miệng
nhắc mấy bà hàng rau đi bộ theo phải cẩn thận kẻo bước hụt. Lúc quay về
thì nhẹ nhàng xe không, vả lại trời đã sáng. Lão cứ việc khoanh tròn
trong thùng xe mà thiu thiu ngủ, mặc kệ cho con bò kéo chiếc xe đi. Lão
ngủ trong xe rất tài, ngủ mà vẫn không quên, vẫn đếm được chính xác từng
cái xóc trong giấc mơ màng. Tới đúng cái xóc thứ tám mươi mốt là lão
tỉnh dậy, nắm sợi dây thừng vắt vắt cho con bò rẽ vào trong làng. Trăm
ngày như một, không bao giờ lão ngủ quên trong xe. Con bò và chiếc xe là
nguồn sống chính của nhà lão gồm bà vợ già, mắt mũi kèm nhèm và hai đứa
con dâu dở người đã mấy chục năm nay, suốt ngày thờ thẫn, lúc lên cơn
thì xé quần xé áo, lăn lộn cả ra vườn. Chồng chúng nó chết trong chiến
tranh, một thằng được công nhận liệt sĩ. Chính nhờ món tiền tuất liệt sĩ
ấy của nó mà lão sắm được con bò, sắm từ hồi nó còn là một con bê mới
đẻ. Một thằng bị ngưới ta làm thất lạc giấy tờ thành ra mất trắng, chả
có danh hiệu với tiêu chuẩn tiêu chiếc gì.
Lão Sướng chưa kịp đi ngủ thì có tiếng gọi to
tướng của một anh dân phòng ngoài ngõ, mời lão lên ngay trụ sở dân phòng
của xóm để làm việc. Lão Sướng giật thót người. Có việc gì mà phải lên
trụ sở dân phòng? Xưa nay nhà lão ăn ở tử tế, chẳng phiền hà đến ai. Hai
đứa con dâu dở hơi chỉ suốt ngày tự nhăn nhở với nhau quanh vườn, rủ
nhau điên những cái điên hiền lành như bùn đất. Cả con bò cũng được lão
đích thân chăn dắt, không để phá lúa hay hoa màu của nhà nào. Càng nghĩ
không ra, lão Sướng càng sốt ruột, đành vội vã chạy tới trụ sở dân
phòng.
Trụ sở dân phòng trấn ngay đầu xóm. Đó là một căn
phòng ba mét nhân ba mét trơ trọi, đội mái tôn nhọn hoắt như cái chóp
nón. Đẳng – trưởng xóm đang ngồi sau một cái bàn gỗ bọc phoọc – mi – ca
trắng lở lói, hai bên là hai anh dân phòng mặt non choẹt, ngồi im như
hai pho tượng. Trưởng xóm một tay giở quyển sổ, tay kia lăm lăm chiếc
máy tính nhỏ, bảo lão Sướng:
- Tôi mời ông đến nộp bổ sung phí giao thông đường làng. Nhà ông còn mấy suất chưa đóng.
Lão Sướng giật nẩy người, ngớ ra.
- Tôi đã đóng đầy đủ cả quý rồi kia mà. Bây giờ mới đầu tháng tư?
Trưởng xóm ôn tồn giải thích:
- Xã mới có điều chỉnh, không như những năm trước
chỉ thu theo đầu người. Từ năm nay, phí giao thông áp dụng cả với vật
nuôi và phương tiện cho công bằng, có danh mục đóng dấu đỏ kèm theo đây.
Con bò nhà ông bốn chân, thu bằng hai suất người. Chiếc xe cũng hai
suất, tổng cộng tám suất. Mỗi suất cân rưỡi thóc một tháng, trừ số đã
đóng theo cách tính như mọi năm, vị chi là…
- Các anh biết thừa đấy, hai đứa con dâu dở người
nhà tôi có bao giờ thò mặt ra đường đâu. Thế mà cũng phải đóng phí giao
thông. – Lão Sướng nhăn nhó.
- Mặc kệ, ai bảo các bà ấy cũng là người. – Trưởng xóm lý luận.
Như chợt nhớ ra điều gì, lão Sướng vội vàng thắc mắc:
- Còn con bò, tôi tưởng phí giao thông đã tính trong thuế đồng rồi cơ mà?
- Thuế đồng thực ra mới chỉ tính trên số diện
tích cỏ nó gặm hàng năm. – Trưởng xóm kiên trì giải thích – Nuôi bò,
nuôi trâu kể từ năm nay còn phải đóng phí môi trường, bởi nó hay ỉa rơi,
ỉa vãi trên đường. Phí môi trường của bò mười lăm cân thóc một năm.
- Nó ỉa đến đâu, tôi nhặt đến đấy. Chứ có khiến ai phải ngửi hộ đâu. – lão Sướng cố cãi.
- Đề nghị ông ăn nói cho cẩn thận. – Trưởng xóm
nhắc nhở rồi tiếp tục mớ lý luận của mình – Lấy gì đảm bảo rằng ông nhặt
sạch trăm phần trăm, không sót lại mẩu phân nào trên đường? Thế còn nó
đái rong thì sao? Dễ thường ông cũng hứng được chắc.
Lão Sướng hết cách cãi, đành lần túi móc ra một nắm giấy bạc lẻ, vừa đưa cho trưởng xóm, vừa năn nỉ:
- Tôi chỉ còn ngần này, chắc chưa đủ. Còn thiếu bao nhiêu, các anh thư cho đến chiều, để tôi hỏi vay trước mấy bà hàng rau.
- Được thôi! – Trưởng xóm dễ dãi – nhưng ông nhớ tự giác đấy, đừng để chúng tôi phải gọi.
Từ trụ sở dân phòng ra về, trong lòng lão Sướng
cứ có cái gì tức anh ách. Lão chẳng lạ gì cả tam đại nhà cái thằng Đẳng –
trưởng xóm kia. Nó ngày bé cũng là thằng ăn cắp ăn trộm, học hành dốt
đặc cán mai, sở dĩ được làm trưởng xóm là nhờ trên người ta tưởng nhớ
đến bố nó. Bố nó còn ít hơn lão mấy tuổi, ngày trước cũng làm chức
trưởng xóm trưởng thôn gì đấy. Bỗng một hôm, dân làng phát hiện bố nó
treo cổ tự tử ở ngay cây đa đầu làng. Chẳng ai hiểu vì cái gì mà khiến
lão phải quyên sinh. Lục trong túi lão, người ta chỉ thấy một mẩu giấy
nhỏ ghi vỏn vẹn năm chữ với một cái dấu ba chấm: “Vì nhân dân quên
mình…”. Lá thư tuyệt mệnh ngắn ngủi ấy của lão ta làm cho mọi người nhức
đầu, nghĩ mãi không ra. Ai cần lão phải quên mình theo kiểu ấy cơ chứ.
Về sau, dân làng rỉ tai nhau truyền đi một cách giải thích khác xem ra
cũng có lý. Té ra trước đó, lão ta ứng cử hội đồng nhân dân xã nhưng bị
trượt, dân quên không bầu lão…
Lão Sướng vừa về đến nhà thì bà Cổn ở xóm Con Lợn tìm đến có việc. Bà bảo:
- Biết bác ngày nào cũng lên chợ Huyện, tôi sang gửi bác ngày mai mua hộ mấy cái nón rộng vành về đội ban đêm.
Lão Sướng tròn mắt ngạc nhiên:
- Sao lại phải đội nón ban đêm, sợ phải gió à?
Bà Cổn chép miệng:
- Nào ai sợ phải gió phải giếc gì. Ma quỷ còn chả sợ nữa là.
- Thế thì đội nón làm gì? – Lão Sướng rõ ràng chưa hiểu.
Bà Cổn nhả miếng trầu ra cầm trên tay, thong thả giải thích:
- Chả là dạo này, tối tối các ông ấy hay tụ tập
chè chén trong nhà mụ Goá Len ở xóm Con Mèo. Mấy lần rồi, chẳng hiểu say
xỉn đến mức nào mà lúc về ngang ngõ nhà tôi, các ông ấy phát rồ rủ nhau
trèo lên cây nhãn nhà lão Trạch, mỗi ông leo ra một chạc cây rồi ỉa đái
đầy cả xuống đường, có tay còn nôn thốc, nôn tháo nữa. Bà cháu tôi đi
về qua bị dây hết cả quần áo. Xóm Gà, xóm Vịt cũng có mấy người từng bị
cứt rơi xuống đầu như thế. Thành ra bây giờ, ban đêm có việc ra đường ai
cũng phải đội nón. Nào ai biết các ông ấy đang phát rồ trên cái cây nào
để mà đề phòng…
- Thế sao lúc ấy bà không mắng cho họ một trận – lão Sướng bảo.
Bà Cổn nhìn lão như nhìn một người ngoài hành tinh:
- Bác biết họ là ai rồi mà còn dám nói thế à. Tức
mấy cũng phải ngậm trong miệng. Lôi thôi họ nhân đà say, sai người bắt
giải về uỷ ban thì có mà khốn. Nói thế thôi, chứ chẳng ai lại đi chấp
những người say làm gì.
Thì ra là vậy. Lão Sướng biết ngay việc này đầu
têu ở cái anh bí thư Tưởng. Lão biết anh ta từ hồi còn nhỏ, hắn có thói
quen hay ỉa trên cây, rất mê ỉa trên cây. Nhà anh ta có cây sung lả ra
bờ ao, cả nhà quanh năm trèo lên cây sung ấy ỉa xuống ao để nuôi cá. Sau
này lớn lên, anh ta ra gánh vác việc làng, việc xã, thói quen ấy dần
dần không còn. Song con người ta không biết thế nào mà nói trước được.
Nhất là những lúc say xỉn, không làm chủ được ý nghĩ của mình nữa thì
cái bản năng xưa nó lại trỗi dậy chưa biết chừng. Còn những tay kia,
chắc là a dua, nịnh nọt anh bí thư cho có hội, có phường vậy thôi.
Bà Cổn về lâu rồi mà lão Sướng cứ suy nghĩ vẩn vơ
mãi về cái vụ dân làng phải đội nón đi đêm kia. Liên hệ với việc phải
đóng phí môi trường của con bò, trong đầu lão chợt bật lên một ý nghĩ
phản kháng ngầm rất chi là… hả lòng hả dạ. Rằng cứ theo như ý nghĩa của
cái phí môi trường kia, thì đáng lẽ bọn họ phải đóng mỗi người bằng ba
bốn suất con bò nhà lão… Song đó chỉ là ý nghĩ thôi, thế cũng đủ hả lắm
rồi, đố bao giờ lão dám nói ra mồm.
Lão Sướng ngủ bù một giấc đến giữa trưa thì thức
dậy, cùng vợ con ăn qua loa mấy bát cơm dưa mắm rồi dắt bò ra cánh đồng
chăn, vừa chăn, lão vừa tranh thủ cắt ít cỏ, hoặc vơ lá lảu về cho con
bò ăn đêm. Không như những dân chuyên nuôi bò thịt, lão tuyệt đối không
cho con bò của mình ăn thức ăn tăng trọng. Thứ ấy tuy có làm cho nó béo
tốt, tăng cân. Nhưng chỉ là béo bệu, rất mau xuống sức, và nhất là không
thể kéo nặng được. Chiều về, lão không quên tắm rửa, kì cọ cho toàn
thân nó sạch óng dưới ráng chiều. Lão chăm chút cho con bò còn hơn cả
bản thân lão. Những ngày mùa đông tháng giá, không đun nước tắm cho nó
được thì lão tắm khan. Lão cẩn thận dùng bàn chải, chải kĩ từng xăng ti
mét vuông mình mẩy xuống đến tận bốn chân con bò, không để một mẩu bùn
đất hoặc một con ve nhỏ bé nào bám vào. Được chăm sóc kĩ càng như thế,
con bò của lão lúc nào cũng khoẻ mạnh, béo mượt. Ai trông thấy nó cũng
thích mắt, thèm thuồng.
Lão Sướng là người chỉ sướng ở mỗi cái tên. Đời
lão đã gặp nhiều mất mát, nhất là mất đứt cả hai thằng con trai, đến nỗi
vợ lão khóc lòa cả hai mắt. Hai đứa con dâu trời xui đất khiến thế nào,
lại nhất tề rủ nhau cùng dở người để lão phải nuôi báo cô. May mà lão
sắm được cỗ xe với con bò, lại có việc quanh năm thành ra ngày cũng kiếm
được vài cân gạo, đủ cho bốn kiếp người với một kiếp bò đắp đổi lần
hồi. Cuộc đời nhờ vào những cái tẻ nhạt đâm ra lại có vẻ yên bình, mặc
dù sự mất mát đã biến thành những vết sẹo to lớn biết đi. Lão chẳng còn
cái thú nào khác ngoài việc sáng nào cũng thiu thiu đếm những cái xóc
trong giấc mơ từ chợ Huyện về làng. Một… Hai… Ba… Bốn… Năm… Tám mươi mốt
cái lúc đi, lại tám mươi mốt cái lúc về… Cứ như thể trời đã khoán sẵn
những cái xóc ấy cho số phận của lão. Mỗi lần chiếc xe lắc qua lắc lại,
mài người lão mấy cái xuống sàn, chiếc máy đếm đâu đó trong đầu lão lại
ghi nhớ cái số đếm ấy vào một giấc mơ nhẹ nhàng, tới đúng số tám mươi
mốt là về đến làng…
Có tiếng người quát tháo dưới đường làm lão Sướng
giật mình, ra khỏi cơn mơ màng. Chiếc xe và con bò của lão đã đột ngột
dừng lại, điều chưa từng xảy ra bao giờ. Lão ngủ quên chăng? Không thể
nào. Giấc mơ vừa rồi nhắc cho lão biết chắc chắn rằng vừa mới qua cái
xóc thứ sáu mươi, còn hai mươi mốt cái xóc nữa mới về đến làng. Có
chuyện gì vừa xảy ra. Lão vội vàng mắt nhắm mắt mở, lập cập trèo xuống
khỏi thùng xe.
Sáu bảy người toàn công an, dân phòng đang quây
quanh chiếc xe và con bò như vừa đội đất chui lên, dẫn đầu là Dần –
trưởng công an xã.
- Con bò của ông vi phạm luật lệ giao thông, gây
tai nạn nghiêm trọng. – Trưởng công an Dần vừa dõng dạc nói với lão
Sướng, vừa chỉ tay sang phía vệ đường, rồi lại chỉ vào gầm chiếc xe.
Lão Sướng nhìn theo cánh tay chỉ của trưởng công
an xã. Bấy giờ lão mới hoảng hồn khi thấy một người đang nằm thu lu, hai
tay ôm đầu, cố rặn ra mấy tiếng rống như bò rống. Con bò thì vẫn im
lặng, ngơ ngác không hiểu những con người hiện hữu đây đang làm cái trò
gì. Sau lưng nó, một chiếc xe máy Trung Quốc nằm chắn ngang, vừa vặn
chạm hai bánh của nó vào hai bánh của cỗ xe bò, khéo như có người khiêng
đặt vào vậy.
Có cái gì không bình thường ở cái gã đang nằm
rống bên vệ đường kia. Chẳng biết nó là con cái nhà ai? Lão Sướng tiến
tới chỗ gã, định cúi xuống nâng nó dậy. Ngay lập tức, một bàn tay túm
vai lão kéo lại:
- Yêu cầu ông không được động đến nạn nhân. Đây không phải việc của ông – tiếng một công an viên.
Lão Sướng còn chưa kịp có phản ứng gì thì trưởng công an Dần đã nhanh nhẹn phân công:
- Tính mạng nhân dân là quan trọng. Hai đồng chí
khẩn trương chở nạn nhân đi trạm xá cấp cứu. Một đồng chí đo đạc, đánh
dấu hiện trường. Còn lại theo tôi áp tải chủ xe cùng tang vật về trụ sở
uỷ ban để giải quyết.
Cả người, xe và con bò cùng bị dong về trụ sở uỷ
ban. Lão Sướng bị tống vào một căn phòng cuối dãy nhà ngang, có một công
an viên ngồi canh ngoài cửa, chờ lập biên bản, khám nghiệm hiện trường.
Hồi lâu sau, trưởng công an Dần cho dẫn lão lên, đặt trước mặt lão một
xấp biên bản đã thảo sẵn. Trưởng công an xã vừa đọc, vừa giải thích vào
tai lão:
- Theo kết quả khám nghiệm hiện trường, con bò
của ông lưu thông lấn sang phần đường dành cho chiều ngược lại. Theo
luật, ông bị phạt hai trăm ngàn đồng, giữ phương tiện (cả con bò và
chiếc xe) hai mươi ngày. Đề nghị ông kí vào biên bản thay cho con bò.
Sự việc đã hai năm rõ mười. Lão Sướng có muốn cãi
cũng không được, đành cầm bút nguệch ngoạc vào tờ biên bản, mặt mũi tái
xanh như tàu lá. Trưởng công an xã chờ cho lão kí xong xuôi, mới nói
tiếp:
- Riêng vụ tai nạn gây ra cho người và chiếc xe
kia, chúng tôi còn chờ kết quả giám định phương tiện, xác minh thương
tật thì mới tính toán được mức bồi thường. Vì vậy chúng tôi buộc phải
giữ ông lại uỷ ban để chờ giải quyết.
Lão Sướng nghe đến đó thì hoảng lạnh cả sống
lưng. Bấy giờ lý trí của lão mới có vẻ dần dần được khôi phục. Lão cất
giọng xin xỏ:
- Xin các ông chiếu cố hoàn cảnh tôi là gia đình liệt sĩ…
- Tôi biết, tôi biết! – Trưởng công an xã vội
ngắt lời – Chính vì thế trong biên bản không ghi ông là người vi phạm
luật giao thông, cũng không ghi ông là người gây ra tai nạn, mà tất cả
là do con bò. Thậm chí lúc tai nạn xảy ra, ông còn đang ngủ khì nữa kìa.
Có điều ông là chủ của con bò thì phải bồi thường thay cho nó là lẽ
đương nhiên. Chúng tôi giải quyết bất cứ việc gì cũng nghĩ đến tình
trước, lý sau…
Lão Sướng nhìn con bò đang bị buộc dưới trời nắng
chang chang mà đứt từng khúc ruột. Khuôn mặt già nua, đầy nếp nhăn của
lão ràn rụa nước mắt. Đến trưa thì bà vợ lòa của lão được báo đã mang cỏ
lên cho con bò, mang cả cơm cho lão. Lão cố trệu trạo nhai, cố nghèn
nghẹn nuốt những miếng cơm trộn lẫn nước mắt, nhơn nhớt như được chan
bằng canh rau đay, rau mồng tơi.
Quá trưa thì Chấn – phó công an xã mò tới. Lão
Sướng mừng rỡ như bắt được vàng, đầu lão loé lên một tia hy vọng. Lão
vội vã thều thào:
- Cháu xem có cách nào cứu con bò, cứu chú với Chấn ơi!
Phó công an Chấn cố làm ra vẻ thiểu não, ngồi xuống bên lão bảo:
- Gay lắm chú ạ. Con bò lưu thông trái đường,
phạt hai trăm thì chịu rồi, giữ hai mươi ngày thì cháu có thể xin giảm
bớt được. Song còn cái vụ bồi thường kia, nghe nói bị gãy hai dẻ xương
sườn. Chưa biết họ đòi bao nhiêu.
Khoảng giữa buổi chiều, trưởng công an Dần lại cho dẫn lão lên. Dần thông báo luôn:
- Báo để ông mừng. Tai nạn không gây nguy hiểm
đến tính mạng. Nạn nhân chỉ bị gãy hai dẻ xương sườn. Chiếc xe cũng đã
có kết quả giám định hư hỏng. Đây là yêu cầu bồi thường của người bị
hại, công an chúng tôi để hai bên tự giải quyết với nhau. Nếu phía bên
kia đồng ý bãi nại, chúng tôi sẽ cho ông về.
Lão Sướng ù cả tai khi nghe đến số tiền phải bồi
thường. Năm triệu cho tiền thuốc men, bốn triệu sửa chữa chiếc xe máy
Trung Quốc. Cộng cả tiền phạt là chín triệu hai. Đời lão chưa bao giờ có
món tiền to đến thế, gần bằng ba con bò… Lão luống cuống đến mức lăn
đùng ra khỏi ghế, chẳng biết phải trả lời thế nào. Trưởng công an xã hất
hàm, hai công an viên phải túm lão dậy, dìu xuống căn phòng lúc nãy để
lão nằm mà nghĩ cho bình tĩnh.
Xâm xẩm tối, phó công an Chấn đến dúi vào tay lão cái bánh bao rồi bảo:
- Cháu năn nỉ mãi, họ mới đồng ý không đòi tiền
tiếc gì cả, chỉ phải đền con bò cho họ là xong xuôi chú ạ. Thôi thì cũng
là cái vận cái hạn, đó là cái giá rẻ nhất, ngoài ra không còn cách nào
khác. Chú cứ suy nghĩ đi. Nếu chịu mất con bò thì lập tức cháu bảo họ
thả chú về nhà…
Mất con bò? Lão Sướng chưa bao giờ dám nghĩ đến
điều đó. Mất con bò là mất đứt nguồn sống duy nhất của cả nhà lão. Vợ
chồng già và hai đứa báo cô kia chỉ còn cách dắt nhau lên chợ Huyện ăn
xin. Lão đau quá, ân hận quá. Giá lão đừng có cái thú mơ màng đếm những
cái xóc kia, mà điều khiển con bò cho cẩn thận. Từ nay, dù có muốn lão
cũng không còn cơ hội được đếm những cái xóc ấy trong giấc mơ nữa rồi.
Bò ơi! Con trai ơi! cha có lỗi với các con, có lỗi với số phận của cha,
của cả ba người đàn bà đang sống kiếp đời thừa kia… Bây giờ còn biết làm
thế nào? Lão chợt nhớ hôm nọ ở chợ, có một bà già trỏ lão mà bảo: “ông
năm nay cẩn thận kẻo gặp phải hạn to…”. Đời lão chẳng bao giờ tin vào sự
bói toán, huống chi năm nay lão đã ngoài bẩy mươi, các cụ ngày trước
bảo đó là cái tuổi hết trạch, quỷ thần đã tha rồi, còn phải kiêng kị gì
nữa. Rốt cuộc lão vẫn gặp hạn ở cái xóc thứ sáu mươi…
Sáng sớm hôm sau, khi phó công an Chấn mở cửa
phòng thì lão Sướng đã rũ ra như một tấm giẻ rách, khuôn mặt nhăn nhúm
đen sạm lại, ngô nghê y hệt hai đứa con dâu lão lúc lên cơn. Biện pháp
giữ người quả nhiên có tác dụng. Phó công an Chấn vồn vã:
- Chú đồng ý rồi chứ? Vậy chú điểm chỉ vào tờ giấy này, rồi cháu bảo họ đưa chú về nhà.
Lão Sướng có còn con đường nào để mà chọn nữa
đâu. Vả lại, lý trí của lão đã kịp chia tay với lão từ đêm hôm qua rồi.
Một con bò, chứ mười con bò đối với lão bây giờ cũng thế. Sân uỷ ban hôm
nay nhộn nhịp khác thường. Chính quyền, các ban ngành, đoàn thể… tề tựu
không sót một ai. Tiếng trưởng công an Dần oang oang gọi người này,
quát người kia, phân công công việc túi bụi. Bản thông báo về vụ tai nạn
có kí tên, đóng dấu của trưởng công an xã dán la liệt khắp nơi. Con bò
của lão Sướng đã được dắt ra cột ở giữa sân. Trước mặt nó là một chiếc
búa tạ và một cái chậu to tổ bố. Có mấy người cởi trần trùng trục, bắp
thịt cuồn cuộn đang huơ lên những con dao bầu sáng loáng.
Lão Sướng như người mộng du bước qua chỗ con bò.
Nó bị bỏ đói suốt đêm qua, giờ đang cố rống lên những tiếng rống cuối
cùng, những tiếng rống âm u đã bắt đầu nhuốm mùi tanh tanh của địa ngục.
Lão cụp mắt, không dám nhìn thẳng vào nó nữa. Cứ như thế, lão lầm lũi
bước đi, hai bên là hai anh dân phòng có nhiệm vụ hộ vệ lão về đến tận
nhà. Đang đi, chợt nghe phía sau có một tiếng “bộp” khô khốc, ngay sau
đó là một cái gì vừa đổ vật xuống. Tiếng rống đã im bặt. Đất dưới chân
như bị rung lên, tiếng “bộp” kia vừa giáng vào gáy con bò, hay là giáng
vào gáy lão. Lão Sướng tối sầm mắt lại, giơ hai tay lên trời rồi lảo đảo
khuỵu xuống. Sau lưng lão, sân uỷ ban tưng bừng không khí đình đám, bấy
giờ mới thực sự diễn ra một đám mổ bò.
Đám mổ bò hôm ấy náo nhiệt đến tận trưa. Sau khi
chia phần đâu đấy, bộ lòng bò vĩ đại được chế biến tại chỗ cho những
người lâu nay vất vả vì việc dân, việc xã liên hoan chè chén với nhau
suốt cả buổi chiều, lại còn say sưa ca hát đến tận nửa đêm…
Mờ sáng hôm sau, trên con đường quen thuộc từ
làng lên chợ Huyện, người ta thấy có bốn bóng người lầm lũi dắt nhau đi.
Không ai khác, chính là lão Sướng, bà vợ lòa và hai đứa con dâu dở hơi.
Bốn người cùng túm vào một đoạn dây thừng do lão Sướng nắm một đầu dây.
Lão dẫn họ lên chợ để đổi sang kiếp ăn xin. Nhưng lão còn phải đếm lại
một lần cuối cùng, không phải trong giấc mơ, lần lượt tám mươi mốt cái
xóc này nữa, thì mới tới được cái đích ăn xin của kiếp mình, kiếp vợ
lão, và hai đứa con dâu báo cô của lão…