CỬU NGŨ CHÍ TÔN
Theo quan niệm bình dân, Trung Hoa xưa chia các chữ số thành hai
loại : Số Lẻ là DƯƠNG; Số Chẵn là ÂM. Trong các số DƯƠNG, số 9 (Cửu) là
số cao nhất; số 5 (ngũ) là số ở giữa, nên mới lấy số 9 và số 5 tượng
trưng cho uy quyền của một đế vương, gọi là CỬU NGŨ CHÍ TÔN 九五至尊.
Theo sách Chu Dịch 周易, Bát Quái 八卦 gồm có 8 quẻ là Càn, Khảm, Cấn,
Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài 乾、坎、艮、震、巽、離、坤、兌; mỗi quẻ có 8 hào, 8 lần 8 vị
chi là 64 hào. Quẻ CÀN tượng trưng cho Trời, nên cũng tượng trưng cho
bậc Đế Vương, vì CÀN có 6 hào dương nên là cực dương. Như rồng bay lên
giữa trời, gọi là Phi Long Tại Thiên 飛龍在天 (Đây cũng là một chiêu thức
trong Giáng Long Thập Bát Chưởng của bang chủ Cái Bang Hồng Thất Công
trong Anh Hùng Xạ Điêu của nhà văn Kim Dung). Từ dưới đếm lên hào thứ 5
gọi là CỬU NGŨ 九五, mà Cửu Ngũ là hào tốt nhất trong quẻ Càn, nên trở
thành biểu tượng của Đế Vương. Vì thế mà lên ngôi vua gọi là Lên Ngôi
CỬU NGŨ. Gọi nhà vua là CỬU NGŨ CHÍ TÔN 九五至尊 hay là đấng CHÍ TÔN như
trong Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều :
Trên trướng gấm CHÍ TÔN vòi vọi,
Những khi nào gần gũi quân vương.
CỬU NGŨ 九五 chỉ vua, còn CỬU HUYỀN 九玄 thì chỉ Trời. Ta hay nghe câu "Chín phương Trời, mười phương Phật". CHÍN PHƯƠNG TRỜI đó chính là Cửu Huyền đó; gồm có : Đông, tây, nam, bắc, đông bắc, tây bắc, đông nam, tây nam và trung ương. Trong tác phẩm Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh, lời diễn kệ của ông sãi mở đầu tác phẩm có câu :
Ước siêu tam muội, Ngõ thoát CỬU HUYỀN.
Còn...
Mười Phương Phật thì gồm : Đông, tây, nam, bắc, đông bắc, tây bắc, đông nam, tây nam, thượng phương và hạ phương. Cho nên nhà chùa gọi tất cả những người đến cúng chùa là KHÁCH THẬP PHƯƠNG là vì thế. Cho nên mỗi lần có dịp đến chùa ăn cơm chay, chúng tôi đều nói chơi với nhau rằng : "Nhà chùa đã ăn của khách thập phương là mười phương rồi, chúng ta lại đến ăn của chùa nữa, vậy là chúng ta đã ăn của "phương thứ mười một" là " Thực thập nhất phương" rồi đó !"
Ngoài ra, CỬU HUYỀN 九玄 còn là CỬU HUYỀN THẤT TỔ 九玄七祖 chỉ "9 đời con cháu" và "7 đời cha ông", cụ thể như sau :
- CỬU HUYỀN 九玄 là :子 Tử (con)、孫 Tôn (cháu)、曾 Tằng (chắc)、玄 Huyền (chích)、來 Lai ( Cháu 4 đời)、昆 Côn (Cháu 5 đời)、仍 Nhưng (Cháu 6 đời)、雲 Vân (Cháu 7 đời)、耳 Nhĩ (Cháu 8 đời).
- THẤT TỔ 七祖 là :父 Phụ (Cha)、祖 Tổ (Ông nội)、曾 Tằng (Ông cố)、高 Cao (Ông sơ)、太 Thái ( Ông cố 4 đời)、玄 Huyền (Ông cố 5 đời)、顯 Hiển ( Ông cố 6 đời).
Một câu đối hay mà tôi đọc được trên bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ của một gia đình ở miệt Phong Điền, thuộc xã Long Khánh nằm trong quận Cái Răng thuộc Thành Phố Cần Thơ hiện nay :
敬七祖千年不盡; Kính Thất tổ thiên niên bất tận;
重九玄內外相同。 Trọng Cửu huyền nội ngoại tương đồng.
Có nghĩa :
- Thờ kính Thất tổ ngàn năm vẫn không dứt;
- Tôn trọng Cửu huyền nội ngoại đều như nhau !
Sau Cửu huyền, ta có CỬU LÃO 九老, hay còn gọi là Hương Sơn Cửu Lão 香山九老, là Chín ông già ở Hương Sơn. Theo sách Đường Thư : Đời
Đường Võ Tông năm Hội Xương thứ 5 (845), thi nhân Bạch Cư Dị về hưu ở
quê mình là Hương Sơn, cùng kết giao với 8 ông lão khác, tất cả đều trên
70 tuổi để cùng nhau ngâm nga xướng họa. Đó là : Hồ Cảo 胡杲、Cát Mân
吉旼、Trịnh Cứ 郑据、Lưu Chơn 刘真、Lư Thận 卢慎、Trương Hồn 张浑、Địch Kiêm Mô 狄兼谟、Lư
Trinh卢贞 và Bạch Cư Dị 白居易 nữa là 9 người, gọi là HƯƠNG SƠN CỬU LÃO 香山九老.
Vẽ nên bức tranh " Hương Sơn Cửu Lão Đồ 香山九老圖", và đề tài nầy rất thịnh hành trong các triều đại Tống, Minh, Thanh sau nầy. Trong bài thơ trường thiên Tư Dung Vãn của cụ Đào Duy Từ cũng có câu :
Rỡ ràng son phấn điểm tô,
Bên tranh CỬU LÃO, bên đồ bát tiên.
Còn CỬU LƯU 九流 là nói gọn lại của thành ngữ TAM GIÁO CỬU LƯU 三教九流. Tam Giáo là ba tôn giáo chính của xã hội Trung Hoa ngày xưa là : Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo. Cửu Lưu là chín thành phần, chín thân phận con người trong xã hội cổ xưa là : Đế vương, Đạo sĩ, Văn sĩ, Quan lại, Thương buôn, Y bốc, Tăng ni, Binh sĩ và Nông dân. Trong bài "Văn Tế Lục Tỉnh Sĩ Dân Trận Vong 文祭六省仕民陣亡" cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng có nhắc đến các thành phần trong xã hội nầy như :
Bọn TAM GIÁO quen theo đường cũ, riêng than bất hạnh mang nghèo;
Bầy CỬU LƯU cứ nối nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực.
CỬU NGUYÊN 九原 là Cửu Nguyên Cương 九原崗, là Gò đất Cửu Nguyên, một địa danh của tỉnh Sơn Tây ngày nay. Ngày xưa nơi nầy dùng để chôn người chết qua nhiều đời, nên Cửu Nguyên có nghĩa như là Cửu Tuyền, là Âm phủ, là Cỏi chết. Khi cả nhà đang làm lễ tế Thúy Kiều ở ven sông Tiền Đường, thì sư Giác Duyên đến cho biết là Thúy Kiều vẫn còn sống :" Người còn sao lại làm ma khóc người ?" làm cả nhà không khỏi hoang mang :
Rõ ràng hoa rụng hương bay,
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
Minh dương đôi ngả chắc rồi,
Cõi trần mà lại thấy người CỬU NGUYÊN !
Không dùng từ CỬU NGUYÊN 九原, thì ta có thể thay bằng từ CỬU TUYỀN 九泉 là Chín Suối hay HOÀNG TUYỀN 黃泉 là Suối Vàng đều có nghĩa là âm phủ là cỏi chết. Khi bán mình chuộc tội cho cha, Thúy Kiều đã chối lại với Thúy Vân rằng :
Chị dầu thịt nát xương mòn,
Ngậm cười CHÍN SUỐI hãy còn thơm lây.
Hay khi Thúc Sinh đi tìm thầy để chiêu hồn Thúy Kiều, vì Thúc ngỡ là nàng đã bị chết thiêu trong thư phòng. Cụ Nguyễn Du đã diễn tả về sự thần thông của pháp sư là :
Trên tam đảo, dưới CỬU TUYỀN,
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
Cuối cùng, ta có từ CỬU TRÙNG 九重 là CỬU TRÙNG THIÊN 九重天, là Chín Tầng Trời. Theo Thái Huyền Kinh thì Cửu Thiên gồm có :
Một là Trung thiên, Hai là Hâm thiên, Ba là Tùng thiên, Bốn là Canh
thiên, Năm là Tối thiên, Sáu là Quách Thiên, Bảy là Hàm thiên, Tám là
Trầm Thiên và Chín là Thành thiên. Theo Kinh Dịch thì : CÀN vi Thiên, vi Viên 乾為天, 為圜, nên chương Thiên Vấn của Sở Từ có câu : Viên tắc cửu trùng, thục doanh độ chi ? 圜則九重,孰營杜之?Có nghĩa : "Bầu trời cao chín tầng, ai xây đắp mà nên ?". Theo quan niệm ngày xưa : Vua là Thiên Tử 天子 (con của trời), vì Trời có Chín Tầng nên ngai vua được đặt trên cái bệ cũng có Chín Tầng. Vì thế, nên CỬU TRÙNG hay CHÍN TỪNG đều chỉ nhà vua của các triều đại phong kiến ngày xưa. Như các câu thơ mở đầu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn là :
九 重 按 劍 起 當 席, CỬU TRÙNG án kiếm khởi đương tịch,
半 夜 飛 檄 傳 將 軍. Bán dạ phi hịch truyền tướng quân.
mà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã dịch rất hay là :
CHÍN TẦNG gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
hay như trong Sơ Kính Tân Trang của Phạm Thái :
CỬU TRÙNG cảm đến lòng thành,
Sai Kim Tinh xuống thác sinh cỏi trần.
... hay như trong Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều, khi tả nàng cung nữ mới được nhà vua sủng ái :
Đóa lê ngon mắt CỬU TRÙNG,
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu.
Nhưng thân phận của người cung nữ khi đã phấn tàn hương nhạt, đã bị thất sủng không còn được nhà vua để mắt thương yêu, buồn tủi chết già trong cung cấm, trong sự dửng dưng lạnh nhạt chẳng chút đoái hoài của nhà vua trong khi tuổi xuân cứ tàn phai dần theo năm tháng :
Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi bao xong.
Phòng khi động đến CỬU TRÙNG,
Giữ sao cho được má hồng như xưa !
Hẹn bài viết tới !
Đỗ Chiêu Đức
Bài viết rất hay, xin cảm ơn
Trả lờiXóa