Những năm gần đây, cư dân vùng Westminster, CA thường nhắc đến hiện tượng ba ông già Việt Nam đi tìm hạnh phúc.
Trong những lúc trà dư tửu hậu, hoặc ngồi tán gẫu trong quán cà phê, người ta hay đem chuyện cuộc đời của 3 ông già ra kể – có khi rất hào hùng, có lúc thật thê lương – Ai nghe cũng cảm thấy chạnh lòng! Nào là những ngày Miền Nam sục sôi máu lửa, các ông là những chiến sĩ can trường, xả thân chiến đấu bảo vệ quê hương. Rồi khi Miền Nam thất thủ, các ông đã trải qua những đòn thù khổ nhục trong chốn lao tù – tuổi thanh xuân đã bị chiến tranh và lòng người hung hiểm vùi dập.
Đến một ngày “Thiên đàng mở cửa” các ông đến được “miền đất hứa” là Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Nơi đây với hai bàn tay trắng, sức lực hao gầy trong những tháng năm bị tù đày, nhưng các ông đã tận tụy, kiên trì, cố gắng hết sức mình để làm viên gạch lót đường cho thế hệ thứ hai tiến bước. Nhìn con cháu phổng phao đến trường, học hành thành đạt. Các ông cảm thấy thỏa lòng… Khi tuổi già sức yếu các ông âm thầm ở lại với căn nhà xưa cũ trong khu housing chật hẹp (nhà ở dành cho những người có đồng lương thấp) hoặc xin vào viện dưỡng lão để khỏi phiền hà đến con cháu.
Trong những lúc trà dư tửu hậu, hoặc ngồi tán gẫu trong quán cà phê, người ta hay đem chuyện cuộc đời của 3 ông già ra kể – có khi rất hào hùng, có lúc thật thê lương – Ai nghe cũng cảm thấy chạnh lòng! Nào là những ngày Miền Nam sục sôi máu lửa, các ông là những chiến sĩ can trường, xả thân chiến đấu bảo vệ quê hương. Rồi khi Miền Nam thất thủ, các ông đã trải qua những đòn thù khổ nhục trong chốn lao tù – tuổi thanh xuân đã bị chiến tranh và lòng người hung hiểm vùi dập.
Đến một ngày “Thiên đàng mở cửa” các ông đến được “miền đất hứa” là Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Nơi đây với hai bàn tay trắng, sức lực hao gầy trong những tháng năm bị tù đày, nhưng các ông đã tận tụy, kiên trì, cố gắng hết sức mình để làm viên gạch lót đường cho thế hệ thứ hai tiến bước. Nhìn con cháu phổng phao đến trường, học hành thành đạt. Các ông cảm thấy thỏa lòng… Khi tuổi già sức yếu các ông âm thầm ở lại với căn nhà xưa cũ trong khu housing chật hẹp (nhà ở dành cho những người có đồng lương thấp) hoặc xin vào viện dưỡng lão để khỏi phiền hà đến con cháu.
“Ba ông già đau khổ” – mới nghe qua, những người có lòng lành động lòng thương cảm, trong đó có tôi. Nhưng phải xem các ông đang “đau” hay “khổ”- có khi các ông đau mà không khổ hoặc khổ mà không đau?! Nếu tuổi già mà mang cả đau lẫn khổ thì quả là bất hạnh…
Một buổi chiều đẹp trời, tôi ra công viên tìm gặp các cụ để xem sự tình những mảnh đời bất hạnh đó có những nhu cầu gì, may ra giúp cho các cụ bớt được phần nào sự đau khổ.
Gặp ông già thứ nhất – sau những lời chào hỏi xã giao thông thường, tôi hỏi:
– Sức khỏe của Cụ hiện tại thế nào?
– Cảm ơn ông có lời hỏi thăm. Về sức khỏe không có vấn đề – ở tuổi này thường không mắc “ba cao” cũng bị một “thấp”. Nhưng có lẽ nhờ trời thương với lại tôi tập thể dục đều đặn, nên không phải vướng vào. “Ba cao” là: cao mỡ, cao máu, cao đường. Còn “một thấp” là thấp khớp đấy.
– Cao tuổi mà sức khỏe được như vậy là hạnh phúc lắm rồi, nhưng tôi thấy hình như cụ có một tâm sự buồn?
– Vừa buồn, vừa khổ ông ạ!
– Tại sao? Tôi hỏi.
Ông già nhìn lên bầu trời xanh lơ, giọng đầy bất mãn:
– Tất cả đều do cái bọn làm truyền thông thiếu lương thiện – hiện nay người ta gọi là bọn “truyền thông thổ tả” đấy. Những ngày mới sang đây, tôi cực nhọc với công việc để kiếm tiền nuôi con ăn học; gầy dựng lại mái ấm gia đình. Cực thì có mà khổ thì không – trong lòng cứ phơi phới niềm vui khi thấy con cháu chăm chỉ học hành tiến bộ. Bây giờ chúng nó đã thành đạt, có việc làm ổn định, nhà cửa khang trang, không còn cần đến sự bảo bọc của mình nữa. Thế là mãn nguyện và an hưởng tuổi già.
Ngày xưa các cụ nhà ta, tuổi già có cái vui thú điền viên. Bây giờ ở bên này, tuổi già tìm thú vui nơi cái TV, sách báo… Đám già tụi tôi sang đây chỉ được học ESL mấy tháng, rồi lăn lưng vào công việc, tiếng Anh tiếng u không học được bao nhiêu để nghe đài ngoại quốc, chỉ còn trông cậy vào truyền thông Việt ngữ. Tuổi già thường hay hoài niệm về quê hương và muốn theo dõi những sinh hoạt cộng đồng. Nhưng tin tức trong nước thì bưng bít hoặc tuyên truyền xuyên tạc. Ngoài này thì thoải mái tung hê – tha hồ “bôi tro trát trấu” – tin giả (fake news), tin thật “loạn xà ngầu”.
Mấy cái đài Việt Nam, báo chí Việt ngữ thì phe nọ, đảng kia – đưa tin, bình luận theo “đơn đặt hàng”, ít khi có được nguồn tin chính xác hay một bài bình luận khách quan nên chẳng biết đâu mà lần. Ngày nào lời nói của các cụ là “khuôn vàng thước ngọc”, bây giờ thế hệ trẻ cho là lạc hậu và những nhận định về thời cuộc của các ông già, chúng nó coi như chuyện “tào lao”. Những kinh nghiệm trường đời của cha ông không còn là “kho báu” cho thế hệ trẻ. Chúng nó rành tiếng Anh, nghe đài Mỹ, cập nhật tin tức, rồi tự cảm thấy mình giỏi giang hơn, cấp tiến hơn, văn minh hơn – mà thực tế là như vậy nên được các bà mẹ ủng hộ. Đám già tụi tôi chỉ còn là bóng mờ dĩ vãng – lời nói không đáng một xu! Nhưng xem ra sự khôn ngoan trong xử thế và các giá trị đạo đức chúng nó còn cần học hỏi nơi các ông già, vậy mà chúng nó ít quan tâm, còn cho là “lẩm cẩm”! Đám già cảm thấy lạc lõng, cô đơn…chỉ thầm lặng nhớ đến câu thơ của ông Tú Xương: “Nhà kia lỗi đạo con khinh bố/ Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng” mà não lòng…
Ông già trầm ngâm, nói tiếp: – Cái khổ nhất trong đời người là mất niềm tin. Truyền thông đóng một vai trò quan trọng tạo dựng niềm tin, nhưng ngày nay đã mất hết rồi. Khổ lắm ông ạ!
Tôi đến gặp ông già thứ hai – trông ông không được khoẻ mạnh – mập phì, đi đứng khó khăn chậm chạp. Cũng qua câu chào hỏi xã giao, tôi hỏi:
– Cụ cảm thấy tuổi già ở bên Mỹ – sướng khổ thế nào?
– Không khổ, mà đau bệnh hoài ông ạ.
Tôi vớt vát một câu xã giao an ủi:
– Tuổi già đau bệnh là lẽ thường, ít ai tránh khỏi…
Ông già trầm ngâm, có vẻ tự trách:
– Già sinh bệnh là lẽ thường, nhưng cũng do mình ngây thơ tin vào truyền thông nên mới ra cớ sự. Khi tôi sang đây, mấy đứa con đã lớn, tôi chỉ làm việc nuôi chúng nó vài năm. Sau đó chúng nó mở cơ sở làm ăn khấm khá: đứa tiệm tóc, đứa tiệm nail. Thương ông già bao năm khổ cực ở quê nhà, chúng bảo tôi thôi làm việc cho khỏe và đua nhau phụng dưỡng cha già. Tôi được thưởng thức các món ngon vật lạ – hưởng thụ văn minh vật chất Hoa Kỳ. Các con tôi xem TV, thấy thứ gì quảng cáo bổ dưỡng là mua về biếu tặng: nào là sữa ong chúa, đông trùng hạ thảo; các loại dược thảo mát gan, bổ thận, duỡng tim, khỏe phổi đều có cả …Trong nhà đủ bộ Super của Phạm Hoàng Trung: Super Liver, Super Vision, SuperBone… Nhưng càng uống lục phủ ngũ tạng càng rã rời…
– Vậy cụ có còn dùng dược thảo nữa không? Tôi hỏi.
– Bỏ lâu rồi! Bây giờ uống thứ gì đều hỏi bác sĩ gia đình.
Thấy ông già có vẻ cởi mở, tôi đùa:
– Có một nơi chữa bệnh cao mỡ, cao máu, cao đường, mập phì thần kỳ – không cần thầy, cần thuốc.
– Nơi nào? Ông già hỏi.
– Xin vào các “Trại tập trung cải tạo” ở Việt Nam.
Ông già cười hì hì:
– Ừ! Trong đó còn có thứ thuốc bổ phổi lại trừ lao hay hết biết là thuốc lào. Nhưng thôi! Cho em xin! Đã ở trong đó hơn sáu năm trước khi qua đây – Chớ có dại!
Hôm sau tôi tìm gặp ông già thứ ba. Thoáng trông đã biết ông là người vừa đau vừa khổ – hai tay run run tỳ trên thanh ngang của chiếc xe tập đi cho người già, cái lưng còng quá độ trên tấm thân gầy guộc xiêu xiêu từng bước theo chiếc xe lăn. Ông thẫn thờ nhìn những chiếc lá vàng rời cành chao bay trong gió, thỉnh thoảng lầu bầu những lời không nghe rõ. Tôi theo sau ông một đoạn đường, mới lên tiếng chào:
– Xin chào thầy, hôm nay đẹp trời thầy ra đây ngoạn cảnh?
– Hôm nào tôi cũng tập đi trên con đường này, già mà cứ ngồi một chỗ sẽ liệt đấy ông ạ.
Trong vùng này nhiều người biết đến ông qua các buổi hội luận và các bài khảo cứu đăng trên báo về lịch sử Việt Nam cận đại. Riêng tôi, đã biết ông từ trước năm 1975. Ông là Giáo sư dạy Sử Địa nổi tiếng ở trường Võ Tánh – Nha Trang. Ông giảng bài hấp dẫn như nghe chuyện kiếm hiệp và có nhiều bài khảo cứu lịch sử giá trị đăng trong Tập San Sử Địa. Ông đã qua một thời vang bóng và là thần tượng của nhiều học sinh trường Võ Tánh – Nha Trang trong thập niên 60-70.
Bây giờ trông ông tàn tạ, tôi cảm thấy ái ngại nêu lên câu hỏi. Nhưng ông bộc bạch:
-Tuổi già mấy ai tránh khỏi đau bệnh. Đau bệnh nó đến rồi đi – lúc mệt, lúc khỏe là chuyện thường tình. Nhưng cái khổ thì cứ miên man ông ạ – có lẽ mình còn nặng nợ với trần gian nên cứ vấn vương “nỗi khổ”.
– Điều gì đã làm cho Thầy vấn vương nỗi khổ? Tôi hỏi.
– Vấn đề lịch sử nước nhà – Tôi đã học và nghiên cứu lịch sử suốt cả cuộc đời. Mọi người đều biết rằng: quá khứ không thể đổi thay – nó đã được lưu vào sử sách để con cháu đời sau biết việc làm của cha ông mà hãnh diện, vinh danh hay rút kinh nghiệm. Nhưng thời nay con người thường “chính trị hoá lịch sử”: bóp méo, vo tròn, xuyên tạc lịch sử theo nhu cầu đảng phái, quyền lợi cá nhân, phe nhóm. Sự thật không còn được tôn trọng.
– Người xưa đã bảo: – Biết mà không nói là bất nhân’
– Thấy sai mà không chỉ cho người ta sửa là bất nhẫn.
– Biết sai mà cứ nói, cứ làm để an thân, thủ lợi là bất lương.
– Không phân biệt được đúng sai, cứ làm càng, nói bậy là bất trí.
– Tôi không muốn là kẻ: bất nhân, bất nhẫn, bất lương và không trí tuệ, cho nên từng đêm tôi tra cứu, suy tư về lịch sử để viết những bài khảo luận, những mong soi sáng lịch sử nước nhà. Nhưng than ôi! Bây giờ “Mười nguời đọc, chín người thôi” – giống như ông Trần Tế Xương đã than: “Cái học nhà nho đã hỏng rồi / Mười người đi học, chín người thôi”…
– Đó là nỗi khổ ông à…
Sau khi gặp gỡ, phỏng vấn ba ông già, tôi thấy: một ông khổ mà không đau; một ông đau mà không khổ; một ông bị cả khổ lẫn đau. Và cả ba ông đều không tìm được hạnh phúc cho tuổi già, nên cứ mãi đi tìm.
Một ngày
đẹp trời, tôi tình nguyện lái xe đưa ba ông già đi thăm một người bạn
trước đây cùng ở trong khu housing, nhưng nay đã trả nhà cho chính phủ
để “đi tu tiên”. Được biết trước năm 1975, ông
là giáo sư dạy Triết ở trường Võ Tánh-Nha Trang, bạn thân với ông Giáo
sư Sử Địa. Gia đình ông vượt biên sang đây được vài năm thì vợ bỏ đi
theo người khác. Ông không có con cái gì, và được hưởng tiền trợ cấp xã
hội (welfare) – đủ sống… nên không bận tâm về
việc làm và vấn đề tài chánh. Những người quen biết tưởng rằng ông vào
chùa hay tịnh cốc nào đó tu hành cho quên nỗi buồn thế sự… nhưng khi đến
nơi mới thấy: không phải chùa chiền, tịnh cốc mà chỉ là cái lều vải đơn
sơ căn trong khu rừng vắng, cách con lộ
chính vài miles. Dân cư trong vùng gọi là “ông già Á đông homeless”.
Phải khen
ông khéo chọn nơi này – nắng chiều xuyên qua kẽ lá rừng phong làm cho
những chiếc lá vàng cuối thu thêm óng ả, bên cạnh căn lều có con suối
nhỏ nước trong trông tận đáy – róc rách, lững
lờ, mát rượi…một cây hoa giấy đỏ rực màu xác pháo phủ lên một góc căn
lều – một cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp như tranh vẽ!
Chúng tôi dừng lại trước căn lều. Một ông già râu tóc bạc phơ nheo mắt nhìn chúng tôi, mỉm cười hiền hậu như một tiên ông. Ông vui vẻ bắt tay từng người, rồi hỏi:
– Ngọn gió nào đưa quý ông đến đây?
Ông Giáo sư Sử Địa lên tiếng, trả lời:
– Muốn đến thăm ông, xem ông tu hành đến đâu để bắt chước cho đời bớt khổ.
– Tôi nghe người ta bảo ba ông đang đi tìm hạnh phúc. Vậy quí ông đã tìm ra chưa? Theo tôi nghĩ: – Hạnh phúc đâu có rơi vãi bên ngoài mà đi tìm – nó tự tại trong mỗi con người. Nguyên ủy của hạnh phúc là sự tự do. Sống trên đất Mỹ tự do có thừa mà không cảm nhận được hạnh phúc, là do mình chưa vận dụng đúng mức chữ tự do nên nỗi khổ cứ miên man.
Một ông già phản biện:
– Chính cái “tự do dư thừa” đó làm cho con người đau khổ đấy ông ạ.
Ông già tu tiên chậm rãi, nói:
– Ừ! Có người còn nôm na bảo rằng dân Mỹ đang “bội thực tự do”. Nhưng giữa bội thực với không có cái gì bỏ vào mồm – giữa tự do và độc tài – ông chọn cái nào?
Ông già kia ú ớ! Ông tu tiên tiếp tục:
– Cứ nôm na coi “tự do” như “thực phẩm” thì Tự do, tự nó là tốt lành nuôi dưỡng tinh thần như thực phẩm nuôi dưỡng cơ thể. Chỉ vì con người tham lam – tự đánh mất bản ngã của mình – cái thân còn đó, nhưng suy tư tách biệt – đôi khi đối lập với chính mình. Hegel, một triết gia duy tâm nổi tiếng người Đức vào thế kỷ 19 gọi đó là hiện tượng vong thân. Trong xã hội ngày nay có lắm kẻ vong thân làm cho nhân loại tăng thêm nỗi khổ.
Ông già nhìn mọi người với ánh mắt rưng rưng. Và ông nói như thầm nhủ với chính mình:
– Đám già chúng ta thường sống trong hoài niệm với tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú. Cứ mãi nhớ ngày nào:“ …
Chúng tôi dừng lại trước căn lều. Một ông già râu tóc bạc phơ nheo mắt nhìn chúng tôi, mỉm cười hiền hậu như một tiên ông. Ông vui vẻ bắt tay từng người, rồi hỏi:
– Ngọn gió nào đưa quý ông đến đây?
Ông Giáo sư Sử Địa lên tiếng, trả lời:
– Muốn đến thăm ông, xem ông tu hành đến đâu để bắt chước cho đời bớt khổ.
– Tôi nghe người ta bảo ba ông đang đi tìm hạnh phúc. Vậy quí ông đã tìm ra chưa? Theo tôi nghĩ: – Hạnh phúc đâu có rơi vãi bên ngoài mà đi tìm – nó tự tại trong mỗi con người. Nguyên ủy của hạnh phúc là sự tự do. Sống trên đất Mỹ tự do có thừa mà không cảm nhận được hạnh phúc, là do mình chưa vận dụng đúng mức chữ tự do nên nỗi khổ cứ miên man.
Một ông già phản biện:
– Chính cái “tự do dư thừa” đó làm cho con người đau khổ đấy ông ạ.
Ông già tu tiên chậm rãi, nói:
– Ừ! Có người còn nôm na bảo rằng dân Mỹ đang “bội thực tự do”. Nhưng giữa bội thực với không có cái gì bỏ vào mồm – giữa tự do và độc tài – ông chọn cái nào?
Ông già kia ú ớ! Ông tu tiên tiếp tục:
– Cứ nôm na coi “tự do” như “thực phẩm” thì Tự do, tự nó là tốt lành nuôi dưỡng tinh thần như thực phẩm nuôi dưỡng cơ thể. Chỉ vì con người tham lam – tự đánh mất bản ngã của mình – cái thân còn đó, nhưng suy tư tách biệt – đôi khi đối lập với chính mình. Hegel, một triết gia duy tâm nổi tiếng người Đức vào thế kỷ 19 gọi đó là hiện tượng vong thân. Trong xã hội ngày nay có lắm kẻ vong thân làm cho nhân loại tăng thêm nỗi khổ.
Ông già nhìn mọi người với ánh mắt rưng rưng. Và ông nói như thầm nhủ với chính mình:
– Đám già chúng ta thường sống trong hoài niệm với tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú. Cứ mãi nhớ ngày nào:“ …
Ta
bước
chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp
nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã
quắc/
Là khiến cho mọi vật đều im hơi…”
(Thơ Thế Lữ)
Nhưng than ôi! “Thời oanh liệt nay còn đâu!”
Ông già tiếp tục:
– Nỗi khổ cứ miên man – làm sao để tiêu trừ? Người đời thường bảo: “tuổi già đau khổ”. Nhưng khi chiết tự mới thấy: cái đau không giống cái khổ – cái đau phát xuất từ thân, cái khổ phát xuất từ tâm (cảm nhận). Đau là cụ thể mà khổ thì trừu tượng. Đau nằm trong ý thức, khổ lặn trong vô thức. Thầy, thuốc có thể chữa dứt cái đau. Còn khổ phải tự thân quán chiếu giải trừ – ngoại nhân bất lực!
Nhưng than ôi! “Thời oanh liệt nay còn đâu!”
Ông già tiếp tục:
– Nỗi khổ cứ miên man – làm sao để tiêu trừ? Người đời thường bảo: “tuổi già đau khổ”. Nhưng khi chiết tự mới thấy: cái đau không giống cái khổ – cái đau phát xuất từ thân, cái khổ phát xuất từ tâm (cảm nhận). Đau là cụ thể mà khổ thì trừu tượng. Đau nằm trong ý thức, khổ lặn trong vô thức. Thầy, thuốc có thể chữa dứt cái đau. Còn khổ phải tự thân quán chiếu giải trừ – ngoại nhân bất lực!
Bây giờ “ông già tu tiên” nhìn chúng tôi như đám học trò đang nghe thầy giáo giảng bài. Ông tiếp tục nói:
– Đem hai chữ “thân”, “tâm” ra luận: thân là cơ thể (gồm lục phủ, ngũ tạng, và năm giác quan). Tâm ở đây là tinh thần, là tâm thức, là sự cảm nhận. Con người kết hợp hai phần: thân và tâm – sinh lý thuộc thân, tâm lý thuộc tâm. Thân là cụ thể, Tâm lại vô hình nhưng luôn luôn khắn khít với nhau – khi Thân đau thì Tâm khổ; khi Tâm khổ khiến Thân đau.
– Cho nên giữ cái Thân được An, cái Tâm được Lạc là có ngay hạnh phúc. Có lẽ không có câu cầu chúc nào cho những người già hay hơn là: “Cầu chúc Thân Tâm thường An Lạc”. Tôi xin cầu chúc quý ông được như vậy trong Năm Mới Nhâm Dần!
Tới đây thì nắng chiều sắp tắt, khu rừng phong đượm nét cô liêu. Chúng tôi ra về, ông già homeless tiếp tục ở lại tu tiên. Tôi tự hỏi: – Trong bốn ông già, không biết ông nào sẽ là người tìm được hạnh phúc trong cõi ta bà này ?
Tranh của Bảo Vương
(M.X.Thanh chuyển )
hạnh phúc ở quanh ta
Trả lờiXóa