Tôi sắp kể cho các bạn nghe một
chuyện tình.
Đây không phải
là chuyện tình
ly kỳ, lãng
mạn của những
người trẻ yêu
nhau. Cũng
không phải là
một chuyện
tình gay cấn,
đầy tình tiết
éo le như
trong tiểu
thuyết. Mà đây
là một chuyện
tình nhẹ
nhàng, êm đềm,
một chuyện
tình đơn giản
nhưng sâu đậm,
mà dấu ấn của
nó sẽ tồn tại
suốt đời ngay
cả khi một
trong hai
người đã vĩnh
viễn ra đi.
Niên khoá 1967-1968, tôi học năm
thứ nhất Y
Khoa Saigon.
Khi đi thực
tập mổ xác
người chết tại
Cơ Thể Học
Viện, đường
Trần Hoàng
Quân gần
trường Chu Văn
An, trong nhóm
thực tập với
tôi năm ấy có
Thiệt., cựu học
sinh trường
Petrus Ký,
người miền
Nam, cao ráo
trắng trẻo,
tương đối đứng
đắn, ít đùa
giỡn bông lơn
như đa số
chúng tôi. Sau
khi ra trường
cuối năm 1973,
tôi gia nhập
binh chủng
Biệt Động
Quân, sống đời
lính thú "trấn
thủ lưu đồn"
nơi núi rừng
biên ải. Th.
được hoãn dịch
vì lý do gia
cảnh, ở lại
Saigon làm
việc cho một
nhà thương.
Thiệt. lấy vợ tương đối sớm. Anh
quen bà xã,
T.C., khi còn
là sinh viên Y
Khoa, gặp chị
khi ấy đang
học trường
Dược. Sau
30/4/1975, anh
tiếp tục làm
việc trong nhà
thương, cảm tự
ti. Một thời
gian sau, Th.
chán nản, nên
tìm đường vượt
biên cùng vợ
và con nhỏ.
May mắn được
tàu Anh quốc
vớt, gia đình
anh được đưa
vào định cư
tại xứ sở Nữ
hoàng năm
1979.
Sau vài năm định cư, cả anh lẫn
chị đều lấy
lại được bằng
hành nghề. Anh
chị dọn về ở
Bolton, một
thành phố nhỏ
gần
Manchester.
Th. hành nghề
bác sĩ gia
đình, được
nhân viên và
bệnh nhân (đại
đa số là dân
địa phương
người Anh) quí
mến. Chị thì
làm việc cho
một dược
phòng. Đời
sống của họ
trôi qua êm
đềm hạnh phúc.
Các cháu đều
học hành giỏi
giang, tốt
nghiệp đại học
và đều có việc
làm vững chắc.
Ngoài công
việc làm ở
phòng mạch,
anh cũng tích
cực tham gia
các sinh hoạt của
cộng đồng
người Việt tại
Anh quốc, luôn
luôn có chị
bên cạnh hỗ
trợ.
Tháng 3 năm 2012, anh chị sang Úc
thăm cô con
gái út, đã đỗ
bác sĩ bên Anh
và sang Sydney
làm việc tại
một bệnh viện.
Vợ chồng tôi
và vợ chồng
anh N. - cũng
là người bạn
cũng lớp - có
dịp tiếp đón
hai người, đưa
đi chơi đây
đó. Chúng tôi
cũng đưa anh
chị vào tham
dự Lễ Giỗ Tổ
Hùng Vương năm
đó trong Trung
Tâm Sinh Hoạt
Cộng Đồng ở
Bonnyrigg. Chị
TC rất vui
tính và dễ
thương, nói
chuyện có
duyên nên mấy
bà trò chuyện
cười đùa với
nhau rất thoải
mái.
Chỉ mấy tháng sau đó, chúng tôi
bàng hoàng
nhận được tin
chị TC đã qua
đời. Sau này
hỏi ra, mới
biết rằng chị
đã mắc bệnh
ung thư phổi
từ năm 2010,
và bệnh đã
chuyển di đến
các cơ quan
khác, cho nên
dù chữa trị
cũng chỉ để
kéo dài thêm
thời gian chứ
khó có thể
mong hết bệnh.
Biết chị không
còn nhiều thời
gian nữa, Th.
đã nghỉ hưu
sớm để săn sóc
chị, đưa chị
đi du lịch các
nơi để chia sẻ
với nhau những
tháng ngày
ngắn ngủi còn
lại. Té ra là
khi gặp chúng
tôi lần trước,
chị đã biết
mình không còn
sống bao lâu
nữa, nhưng vẫn
bình thản vui
vẻ với bạn bè,
không hề hé lộ
một dấu hiệu
bệnh hoạn hay
rầu rĩ nào để
tránh gây buồn
bã hay bối rối
cho mọi người
chung quanh!
Thật khó tìm
được một người
đàn bà can đảm
và bản lĩnh
như chị!
Chị mất đi, tinh thần Th. suy sụp
đáng kể. Anh
biếng ăn, ngủ
không được vì
cảm giác hụt
hẫng, thiếu
vắng hình bóng
của người bạn
đời đã bốn
mươi năm chia
ngọt sẻ bùi,
cùng nhau trải
qua biết bao
nhiêu khổ đau
nguy hiểm. Căn
nhà vốn đã
vắng vẻ vì các
con của anh
chị đều đã
lớn, rời nhà
đi làm xa, nay
càng trống
trải dễ sợ.
Anh cô đơn lủi
thủi ra vào,
nhìn đâu cũng
thấy đầy ắp kỷ
niệm của chị.
Nỗi đau mất
mát tưởng
chừng như
không bao giờ
nguôi.
Một vài tháng sau khi chị mất,
Th. gửi cho
tôi bài thơ
này, cảm tác
trong một đêm
mất ngủ, quay
quắt nhớ chị.
NGUYỆT LẠNH
Đánh thức dùm ta trăng của ta,
Chưa khuyết mà sao bóng nguyệt
tà.
Đêm soi trên gối, giờ đâu thấy,
Có phải vì ta mắt nhạt nhòa?
Bao đêm say đắm khúc nghê thường,
Ngờ đâu giờ cất tiếng thê lương!
Trăng hỡi đêm dài chưa muốn sáng,
Hãy giấu dùm ta nỗi đoạn trường.
Xin cho đôi cánh để ta bay,
Tìm trăng mòn mỏi suốt đêm dài.
Hình đây sao vẫn chưa thấy bóng,
Không rượu nhưng mà muốn tỉnh
say.
Say không men rượu giấc chẳng
nồng,
Tỉnh thức mình ta chốn thinh
không.
Trăng ta ai nỡ đem đi giấu,
Hay đã lạc vào cõi mênh mông?
Ta hẹn chờ trăng suốt canh thâu
Có lẽ từ đây đến bạc đầu
Gối lạnh từ ngày trăng xa vắng
Hãy chỉ cho ta trăng ở đâu?
Ta mộng trăng về từ nẻo xa,
Đêm nay ta đón trăng về nhà.
Trăng ấm giờ sao là nguyệt lạnh,
Thức dậy đi trăng, trăng của
ta...
Dương văn Thiệt
Năm ngoái. trong chuyến đi du
lịch Âu Châu,
vợ chồng tôi
ghé Anh quốc,
đến Bolton
thăm Th. và
ngủ lại một
đêm để có thời
giờ hàn huyên
tâm sự. Căn
nhà rất xinh
xắn và gọn ghẽ
của anh tọa
lạc tại một
khu vực yên
tĩnh, có mảnh
vườn nhỏ phía
sau trồng đầy
hoa. Anh đưa
chúng tôi vào
xem phòng của
chị, vẫn giữ
nguyên trạng
như khi chị
còn sống. Tấm
ảnh chị trên
bàn thờ, hai
con mắt đen
láy nhìn xuống
chúng tôi, lấp
lánh như chứa
nụ cười.
Gần đây, Th. lại gửi cho tôi một
bài thơ nữa
anh mới sáng
tác. Thuở
trước trong
khi chị đang
phải chữa bệnh
ung thư bằng
hoá trị và xạ
trị, tóc chị
rụng nhiều.
Ngày nào Th.
cũng phải đi
vòng vòng nhặt
tóc rụng của
chị rơi rớt
quanh nhà. Anh
cũng cất giữ
một số tóc
rụng đó để làm
kỷ niệm. Nay
nhìn tóc nhớ
người, anh cảm
tác nên bài
thơ này:
TÓC XƯA
Ngày nào nhặt tóc quanh đây,
Sợi nằm trong gối, sợi bay ra
vườn.
Sợi dài buộc mối yêu thương,
Sợi ngắn cột lấy nỗi buồn xa quê.
Mượt mà một thuở tóc thề,
Gió lùa qua tóc mân mê vai mềm.
Sợi nào đánh rớt bên thềm,
Nhặt về chờ tối ru đêm giấc nồng.
Sợi nào sáng gội, chiều hong,
Gió đưa hương tóc qua song cửa
mành.
Lạc vào ngõ vắng nhà anh,
Quen người quen cảnh, không đành
rời xa.
Tóc nào đen óng hôm qua,
Gởi vào trang sách, bên ta mỗi
ngày.
Sợi nào là sợi tóc mai,
Loà xoà bên trán làm ai phải
lòng.
Để mà sáng đợi chiều trông,
Sợi kề bên má, sợi hôn môi người.
Sợi nào từ thuở đôi mươi,
Tóc tơ se kết, tiếng cười nỗi
đau.
Sợi nhìn ngày tháng qua mau,
Tóc xanh hôm trước, bạc màu hôm
nay.
Tóc xưa giờ đã xa bay,
Sợi buồn ở lại, ngắn dài xót
xa...
DVTh
Lời thơ thật thấm thía, mỗi chữ
đọc chậm tưởng
như một giọt
nước mắt rơi
đều xuống tim,
lột tả tâm
trạng đau đớn
của người ở
lại nhớ thương
người đã ra
đi. Hai câu
kết nghe bâng
khuâng như một
tiếng thở
dài...
Theo suy nghĩ của tôi, những bài
thơ hay phải
là những rung
động đi thẳng
từ tim ra mặt
giấy mà không
qua quá trình
sàng lọc, chọn
chữ, suy nghĩ
của óc. Bài
Tóc Xưa này,
với tôi, là
một bài thơ
hay theo cách
nhìn đó. Tôi
đã xin phép
tác giả để kể
lại câu chuyện
và đăng bài
thơ lên số báo
Xuân này, để
mọi người cùng
đọc và chia
sẻ./-
Nguyễn Mạnh Tiến
Hoa Huỳnh chuyển
làm thơ rất khó đó
Trả lờiXóa