A. Bài thơ TƯƠNG TƯ ngắn nhất :
Tương truyền, nước Nam ngày xưa, gồm Lưỡng Quảng bây giờ, có
người chinh phụ hay tin chồng đã chết ở chiến trường, nên đau lòng khóc
thương đến chết ở bờ rào. Ít lâu sau nơi đó mọc lên một dây đậu trổ ra
toàn là đậu đỏ. Dân làng gọi đó là " Tương Tư Tử 相思子 " : là Hạt Nhớ
Nhau. Trong Đường Thi có bài thơ Tương Tư 相思 nổi tiếng của Vương Duy
nhắc đến loại Đậu Đỏ nầy :
Hồng ĐẬU sanh nam quốc, 紅豆生南國,
Xuân lai phát kỷ chi ? 春來發幾枝 ?
Nguyện quân đa thái hiệt, 願君多採擷,
Thử vật tối tương ti (tư) . 此物最相思。
Diễn nôm :
Nước Nam có đậu hồng,
Xuân về trổ mấy bông ?
Xin người hái lấy để trong...
Áo xiêm xao xuyến cho lòng nhớ nhau !
B. Khúc hát TƯƠNG TƯ dài và gây tranh cải nhất : Khúc hát TƯƠNG TƯ dài và gây tranh cải nhất, đó chính là khúc cổ cầm TƯƠNG GIANG OÁN 湘江怨. Tương truyền là của Lương Ý Nương một cô gái tài hoa tinh thông âm luật soạn ra, theo tích sau đây :
LƯƠNG Ý NƯƠNG 梁意娘 (khoảng thế kỷ thứ 10) là cô gái giỏi về từ
của nhà Hậu Chu đời Ngũ Đại, tài hoa rất mực. Cô cùng với biểu huynh là
Lý Sinh yêu nhau và cùng đính ước chung thân với nhau. Cha cô biết được,
trách cứ và cấm hai người qua lại cùng nhau. Cả hai đều rất ưu sầu
tương tư đến sinh bệnh. Sau Lý Sinh nhờ mai mối đến ân cần dạm hỏi; Cha
của Ý Nương sợ chuyện xấu đổ bể bèn ưng thuận cho cả hai được hoàn thành
hôn sự đoàn tụ cùng nhau.
LƯƠNG Ý NƯƠNG
rất giỏi về cổ cầm và âm luật, trong khoảng thời gian bị ngăn cách,
tương tư tưởng nhớ đến Lý Sinh, cô đã nương theo tích xưa : Khi vua
Thuấn đi tuần về miền nam rồi chết ở vùng Thương Ngô; Hai bà phi là Nga
Hoàng và Nữ Anh tìm đến khóc chồng đến nỗi nước mắt chảy thành máu vãi
đầy lên những cây trúc ở đó làm cho các cây trúc đều có đốm đỏ (loại trúc nầy rất quý, gọi là TƯƠNG PHI TRÚC 湘妃竹);
Cuối cùng hai bà cùng chết ở bên bờ sông Tương và được phong làm thần
sông nơi đó, nên người đời còn gọi hai bà là TƯƠNG PHI 湘妃. Lương Ý Nương
đã mượn tâm sự của hai bà mà soạn nên khúc đàn TƯƠNG GIANG OÁN 湘江怨 để
gởi gấm tâm sự nhớ nhung tha thiết của mình đến người yêu Lý Sinh. CA TỪ 歌詞 là lời
của khúc hát cũng là một từ điệu thoát thai từ thi tứ mà ra, lời ca nhớ
nhung da diết uyển chuyển bồi hồi âu sầu tha thiết dễ đánh động lòng
người. Theo cầm phổ được chia làm 6 đoạn như sau :
*1.
落花落葉亂紛紛, Lạc hoa lạc diệp loạn phân phân,
終日思君不見君。 Chung nhật tư quân bất kiến quân.
腸欲斷兮腸欲斷, Trường dục đoạn hề, trường dục đoạn,
淚珠痕上更添痕。 Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân.
一片白雲青山內, Nhất phiến bạch vân thanh sơn nội,
一片白雲青山外。 Nhất phiến bạch vân thanh sơn ngoại.
*2.
青山內外有白雲, Thanh sơn nội ngoại hữu bạch vân,
白雲飛去青山在。 Bạch vân phi khứ thanh sơn tại.
我有一片心, Ngã hữu nhất phiến tâm,
無人對君說。 Vô nhân đối quân thuyết.
願風吹散雲, Nguyện phong xuy tán vân,
訴與天邊月。 Tố dữ thiên biên nguyệt.
攜琴上高樓, Huề cầm thướng cao lâu,
樓高月華滿。 Lâu cao nguyệt hoa mãn.
*3.
相思彈未終, Tương tư đàn vị chung,
淚滴冰弦斷。 Lệ trích băng huyền đoạn.
人道湘江深, Nhân dạoTương Giang thâm,
未抵相思半。 Vị để tương tư bán,
海深終有底, Hải thâm chung hữu đễ.
相思無邊岸。 Tương tư vô biên ngạn.
*4.
君在湘江頭, Quân tại Tương Giang đầu,
妾在湘江尾。 Thiếp tại Tương Giang vĩ.
相思不相見, Tương tư bất tương kiến,
淚滴湘江水。 Lệ trích Tương giang thủy.
夢魂飛不到, Mộng hồn phi bất đáo,
所欠惟一死。 Sở khiếm duy nhất tử.
*5.
入我相思門, Nhập ngã Tương tư môn,
知我相思苦。 Tri ngã tương tư khổ.
長相思兮長相憶, Trường tương tư hề, trường tương ức,
短相思兮無盡極。 Đoản tương tư hề, vô cùng cực.
早知如此絆人心, Tảo tri như thử bạn nhân tâm,
何如當初莫相識! Hà như đương sơ mạc tương thức !
*6.
湘江湘水碧沉沉, Tương Giang Tương thủy bích trầm trầm,
未抵相思一半深。 Vị để tương tư nhất bán thâm.
每向夢中相見後, Mỗi hướng mộng trung tương kiến hậu,
令人不覺痛傷心。 Lệnh nhân bất giác thống thương tâm.
* Nghĩa của ca từ trên là :
1. Hoa rơi lá rơi, oa lá rơi tả tơi. Cả ngày nhớ thương chàng mà nào có thấy bóng chàng đâu. Buồn muốn đứt ruột, ôi, buồn đứt ruột. Trên ngấn lệ cũ lại chồng thêm ngấn lệ mới. Một đám mây trắng bay trong núi xanh và một đám mây trắng bay ngoài núi xanh.
2. Trong núi xanh ngoài núi xanh đều phủ đầy mây trắng, nhưng mây trắng thì bay đi chỉ có núi xanh còn ở lại. Ta có một bầu tâm sự, nhưng không ai giúp ta thổ lộ cùng chàng. Mong rằng gió sẽ thổi tan mây đi để ta bày tỏ cùng vầng trăng bên trời. Ôm đàn lên lầu cao, trên lầu cao ánh trăng đầy đặn lan tỏa khắp nơi.
3. Ta gãy một khúc đàn tương tư, chưa gãy xong thì những giọt lệ đã rơi xuống thành những giọt băng lạnh làm đứt cả dây đàn. Người ta bảo sông Tương sâu, nhưng sâu không bằng một nửa của nỗi lòng tương tư. Vì sông biển sâu còn có đáy, chớ nỗi lòng tương tư thì không có bờ bến bai giờ.
4. Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương, cùng tương tư cùng nhớ nhau nhưng không thể gặp nhau và cũng cùng nhỏ lệ xuống dòng sông Tương nầy. Mộng hồn kh