Dù là xứ núi, nhưng ngày ấy bọn trẻ chúng tôi đứa nào có một trái
tràm, coi là được một vật quí. Có được do một người nào đó lặn lội trong
rừng sâu nhặt đem về, hoặc khi bới đào trong những đống cát của công
trình xây dựng may mắn bắt gặp , dáng dấp tưạ hạt me to bằng nắm tay của
tuổi chúng tôi thời đó, vỏ cứng màu nâu bóng, gọi là trái là quả nhưng
kỳ thực nó là hạt, nói chung ai được một trái như thế thì lấy làm tự
hào lắm , vì vừa hiếm hoi lại không rỏ cái trái nó to cỡ nào mà có cái
hạt to đẹp như thế, ngày ấy thường cất kỷ trong túi hoặc trong cặp, thi
thoảng lấy ra thảy như một hòn chàm nhảy lóc cóc trên nền gạch, thường
chơi nhất là cà hạt
mạnh trên vải dày rồi áp vào má để thấy cảm giác nóng., còn quá quắc
hơn lấy hạt cà lâu trên gạch rồi bất ngờ để vào da thịt bạn mình làm
cho người ta phải nhảy nhổm, la hét vì nóng như bị phỏng lửa. Với người
lớn thì trái này dùng để chận giấy và coi như là một sản phẩm lạ của
rừng rú mà thôi.
Rồi thời tuổi nhỏ cũng trôi qua, như viên chàm đá, như con dế, như
đồng xu, trái tràm cũng vào trong quên lãng. Cuộc sống bắt đầu khác,
làng mạc lên phố thị ,cái học cái làm đã dẫn dắt con người theo cuộc
sống như một cuộc lữ hành.
Bây giờ, bỗng thấy cảnh trí quanh mình sao nhỏ lại, ngày xưa gọi dòng
sông bây giờ là dòng suối, ngày xưa gọi là núi bây giờ chỉ là ngọn đồi,
ngày xưa là nơi hoang vu thần bí, bây giờ sao trống trả và cái hạt tràm
đó, rồi cũng lãng quên.
Rồi bỗng một lần dạo quanh vùng bán lan rừng do một số bà con dân
tộc bày ở vệ đường, bắt gặp mấy hạt này, vội mua như sợ mất., người
bán cũng ngơ ngác khi bị hỏi mua, cái này có giá trị gì không ? quí
không ? bán giá bao nhiêu ? vì thằng bé đi tìm lan trong rừng thây hay
hay lượm về chơi, mình thấy là lạ đem chưng cho bắt mắt, thế mà có người
hỏi mua – Trả bao nhiêu cũng được! rỏ ràng nó là vô giá. Chính tôi cũng
nghĩ như thế, nên không ngại ngùng làm chủ ba hạt cây rừng là lạ to lớn
này, nó xuất xứ từ vùng rừng Cát Tiên ,Đạ Tẻ vốn là nơi vườn Quốc Gia.
Từ ngày tuổi nhỏ cho đến bây giờ,cầm hạt trên tay nhưng chưa thấy cái
quả ra sao? Cái cây thế nào. Nghĩ rằng chắc chẳng bao giờ có được vì
rừng đã quá xa, thêm vào đó tuổi tác không còn cho phép mình được thỏa
lòng lùng xục vào nơi rừng sâu,núi thẳm nữa .
Nào ngờ, trong một lần tìm thăm người bạn, một vùng không xa trung
tâm thành phố thấy một tàng cây rậm rịt, ẩn hiện vài quả như trái đậu
to, hỏi đường tìm đường đến gốc thì ngay chính ông bạn mình cản trở, cho
biết rằng cây đa này có từ thởi lập làng hơn 60 năm rồi, không được
ai động đến vì là chốn linh thiêng, anh ta cho biết là dưới gốc cây có
hai cái mộ sau này gốc cây phát triển bộ rể đã ôm hai cái mộ, nên dân
làng kiêng kỵ đến gần, để cho tôi nhớ đến lần đại hội Sinh vật cảnh
Thành phố Bảo Lộc tôi có trình bày tham luận về nhưng cây cổ thụ nằm
trong khu dân cư, ông Hội trưởng SVC tỉnh Lâm Đồng đã cho biết đây là
điều mà Sinh Vật Cảnh cần làm, sau đó có đưa vào chương trình hoạt động
gồm việc thống kê, gìn giữ số cây trong tỉnh .
Tôi bảo với anh bạn “ tôi quí cây cối, tôi sẽ làm cố gắng làm công
việc tôn tạo bảo vệ cây này”. Khi đến nơi, tôi sững sờ vì thấy những hạt
to bằng nắm tay, màu nâu lóe sáng phản chiếu ánh mặt trời. Đúng là nó
hạt trái tràm.
Trở lại trái tràm, tra cứu trong sách Cây Cỏ Việt Nam của GS Phạm
Hoàng Hộ và truy cập trên mạng, thì nó có tên chính là Bàm Bàm, thuộc họ
đậu,tên khoa học Entada pursaetha dây leo to thân gỗ, lá kép hai lần,
chót sống chính của lá có vòi chẻ hai, mang 2 cặp thứ diệp, thứ diệp
mang 3-4 cặp lá hình xoan to 3x 3,5 cm, gié hoa dài đến 25 cm hoa nhỏ
nhiều, mỗi gié đậu 2-5 quả . Quả hình đậu dài có khi đên 2 mét rộng 8-
10 cm, ngoại bì là lớp nạc dày chuyển màu từ xanh non đến xậm già, khi
chin tự nứt theo rảnh hạt,rồi rụng trơ nội bì quả dày cứng, hiện rỏ từng
khung hộp chứa hạt, phải mất thời gian dài khung hộp mới rơi rụng, đến
khi khung mục thì mới trơ hạt ra, như vậy việc nẩy mầm đối với hạt khá
khó khăn cho nên loại này đang bị xếp vào hàng hiếm, tuyệt chủng, lại
là cây thường mọc bên bờ sông suối hạt rơi rụng bị trôi theo dòng nước
cũng là lý do làm cho cây ngày càng hiếm.
Hạt tròn dẹp to chuẫn là hình tròn kính cỡ 4 – 5 cm dày 1-2 cm, nhưng
không đồng đều, bì cứng mầu nâu đen. Những hạt ta thấy được thường vỏ
đã khô cứng, bên trong hạt phôi nhũ cũng teo khô, vì hạt to lớn như thế
khi thả vào nước sẽ nổi,có nghĩa là hạt rổng, không còn khả năng nẩy
mầm được. Hạt nhờ vỏ cứng, nâu bóng có thể dùng trong mỹ nghệ chạm khắc
chữ, viết thư pháp, hoặc đeo làm trang sức….Tại gốc cây mẹ, tôi cố gắng
tìm một cây con, nhưng không có, dù rằng theo lời người ta đồn đại cây
đã có trên 60 năm, như vậy việc nẩy mầm tự nhiên cũa cây giống như cây
Phượng vàng là vô cùng khó khăn.
Qua các lời truyền miệng về thuốc của dân gian và ngay cả các trang
mạng giới thiệu về thuốc có đề cập đến loại cây này có nhiều tính dược
từ cây, lá, đến hạt và cả rể..
Còn với tôi, cây là dạng dây leo vững mạnh, lá dẹp và đặc biệt là
những quả hình trái đậu to lón, lại mang nhiều dược tính, trước sự khó
khăn nẩy mầm, có thể dẫn đến sự tuyệt chủng. Tôi đã cố gắng ương được
một số cây, nghĩ rằng trong mai hậu ở các khu rừng sưu tập, quốc gia lâm
viên, các khu sinh thái sẽ dùng đến, chí it là giới thiệu một tác phẩm
độc đáo của thiên nhiên như là một “kỳ hoa dị thảo”
BÙI THO
Xem thêm : Về cây trồng ở Nội ô Tòa Thánh
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
EM MÙA THU, CHIỀU MƯA THÁNG MƯỜI - Thơ Ngọc Ánh
Tranh Hứa Xuân Trường EM MÙA THU Em ďi dưới nắng Xuân hồng đó Mái tóc mây trời trong trắng bay Má đào đã ửng hây hây đỏ Em thướt tha ngời tr...
-
CON MỂN VÀ ĐIỀM BÁO KHÔNG MAY MẮN Con thú rừng có tên “ Mển ” hay“ Mang” , còn gọi là hoẵng , kỉ , là mộ...
-
Năm nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực kh...
-
Bối cảnh lịch sử: Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồ...
kỳ diệu quá
Trả lờiXóa