Ly tao 離騷 • Nỗi sầu ly biệt.
Ly tao là tác phẩm tiêu biểu của Khuất Nguyên, là bài thơ lãng mạng-trữ tình-tự thuật đầu tiên và lớn nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Ly tao nổi tiếng đến mức người Trung Quốc về sau coi đó là đại biểu của thơ ca. Họ gọi nhà thơ, nhà văn là “tao nhân, mặc khách” (ở Việt Nam ta trước đây cũng quan niệm như vậy, nên Lê Thánh Tông gọi thi đàn do mình sáng lập là “Tao đàn”, và Thế Lữ trong bài Cây đàn muôn điệu đã viết “Mượn cây bút nàng Ly tao tôi vẽ...”). Về chữ Ly tao có nhiều cách giải thích. Chu Bích Liên, trong sách Cổ thi hải, kết hợp ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, lý giải rằng: Ly tao nguyên là một điệu dân ca nước Sở, thích hợp với việc thể hiện những nỗi uất ức, bất bình; vì thế nhà thơ Khuất Nguyên khi bị vua Sở đầy ải đã dùng Ly tao làm đề để trữ phát những nỗi đau buồn day dứt uất kết trong lòng, đồng thời nói lên lý tưởng mà mình hoài bão. Ở ta, thông thường vẫn hiểu chữ “ly tao” theo cách chú giải của Vương Dật (người cuối đời Ðông Hán): “Ly tao - nỗi sầu ly biệt”. Chú như vậy cũng thông (có thể đây là nguyên nghĩa của Ly tao trong Sở điệu).
Bản dịch của Nhượng Tống
Gửi bởi Vanachi ngày 10/08/2005 00:56
Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ,
Vốn dòng vua về họ Cao Dương.
Tháng giêng đầu tiết xuân sang,
Cõi đời ta xuống, giữa đương ngày Dần.
Buổi trứng nước ân cần săn sóc,
Biết bao nhiêu khó nhọc công cha.
Chữ hay kén đặt cho ta:
Tên là Chính Tắc, tự là Linh Quân.
Trong ta đã mười phần lộng lẫy,
Chải chuốt càng thêm nảy xinh tươi.
Sói ngàn nhài bãi khoác ngoài,
Tết lan thu lại làm đai đeo thường.
Sợ chẳng kịp, ta càng mê mải,
Tuổi xanh nào có đợi gì ai!
Mộc lan sớm cắt trên đồi,
Đông thanh chiều hái bên ngoài bến sông.
Ngày tháng vút đi không trở lại,
Vừa xuân qua đã lại thu sang.
Đoái trông cỏ áy cây vàng,
Sợ con người đẹp muộn màng lỡ duyên!
Tuổi đang trẻ nết quen càn rỡ,
Thế mà không đổi sửa cho đành.
Ngựa hay cưỡi lấy, đi nhanh,
Lại đây ta chỉ cho mình đường quang.
Đời ba vua thuở đang rực rỡ,
Các giống thơm hớn hở đua tươi.
Hoa tiêu, hoa quế lộn mùi,
Cứ gì hoa huệ được người yêu đương.
Theo đạo chính nhằm đường ngay thẳng,
Nghiêu Thuấn xưa thiệt đấng minh quân.
Cớ sao Kiệt Trụ ngu đần,
Đâm đầu lối tắt sa chân đường cùng.
Hám vui bọn chúng không biết sợ,
Đường tối tăm hiểm trở xiết bao.
Xe loan e lúc đổ nhào,
Phải rằng ta sợ thiệt vào đến thân!
Cố theo kịp gót chân vua trước,
Quản chi công xuôi ngược long đong.
Tình ta mình chẳng xét cùng,
Nghe lời ton hót đem lòng giận ta!
Nói thẳng vẫn biết là có hại,
Biết vậy mà nín mãi không đành!
Chín lần trời hãy chứng minh,
Chỉ vì ta quá yêu mình đấy thôi!
Trước cùng ta nặng lời hẹn ước,
Sau vì đâu đổi khác đơn sai?
Biệt ly ta chẳng quản nài,
Xót mình lòng dạ đổi dời bao phen.
Chín vườn lan lại nghìn sào huệ,
Một mình ta chăm chỉ hôm mai.
Tử tiêu bạch chỉ xen vai,
Kẹ trong đỗ nhược, bao ngoài tân di.
Mong cành lá có khi đua nẩy,
Chờ đến mùa hái lấy hoa tươi.
Bỏ rơi ta thiết chi đời,
Thấy trăm hoa chịu lạc loài mà thương!
Chúng chen chúc trên đường vụ lợi,
Tấm lòng tham, tham mãi tham hoài!
Đem dạ mình đọ bụng người,
Sinh lòng ghen ghét, đặt lời gièm pha.
Mồi phú quý cố mà đeo đuổi,
Phải lòng ta có vội thế đâu.
Cái già sồng sộc theo nhau,
E không để được về sau tiếng lành.
Ăn hoa rụng bên nhành thu cúc,
Uống sương sa dưới gốc mộc lan.
Tình yêu khôn đẹp muôn vàn,
Khát hoài! đói mãi! phàn nàn mà chi!
Rút rễ cây ta xe sợi chỉ,
Xâu cánh hoa thiên lý xinh xinh.
Cánh lan cánh huệ trắng tinh,
Giây ngần bền dẻo tết manh áo ngoài.
Áo như thế thói đời chẳng mặc,
Ta cứ theo phép tắc người xưa.
Dẫu rằng đời có chẳng ưa,
Thì xin theo lối cũng như Bành, Hàm.
Đời người khổ kể làm sao xiết!
Đành than dài gạt vết lệ hoen.
Làm xinh ta khéo vô duyên,
Sớm vừa can gián chiều liền sa cơ.
Sa cơ mặc nhởn nhơ vẫn thế,
Vẫn đeo lan dắt huệ như xưa.
Lòng ta đã thích đã ưa,
Dẫu rằng chín chết có chừa được đâu.
Trách mình chẳng suy sau xét trước,
Mãi mãi không rõ được thói đời.
Chúng ghen ta có mày ngài,
Phao cho ta tiếng con người lẳng lơ.
Người đời thật đã thừa khôn khéo,
Đua nhau theo mức vẹo thước cong.
Khuôn vuông mẫu thẳng chẳng dùng,
Cúi luồn cầu cạnh một dòng như nhau!
Một mình chịu nuốt sầu ngậm tủi,
Nói ai hay nông nỗi lúc này?
Thà cho sống đoạ thác đày,
Lòng ta không nỡ để lây thói thường!
Loài chim cắt ngang tàng bay bổng,
Vốn xưa nay là giống không đàn.
Vuông tròn vốn chẳng cùng làn,
Khúc đường ai để yên hàn cho ai?
Tránh điều lỗi, mặc đời xoi mói!
Nén chí xưa, cam nỗi xót xa.
Thánh hiền xưa cũng như ta,
Thẳng ngay mà chết, ấy là chết trong!
Tiếc nhận lối mà không biết lối,
Liệu về thôi, ở lại chi lâu?
Lạc đường cũng chửa xa đâu,
Quay xe trở lại cho mau còn vừa.
Giục vó ngựa lên bờ lan dã,
Sang gò tiêu thong thả nghỉ ngơi.
Tiến ra chẳng hợp với đời,
Lui về sửa lại mặc ngoài cho xinh.
Hái sen súng, cắt manh áo đẹp,
Cắt phù dung may nếp xiêm dài.
Đời không biết đến mặc đời,
Tình ta vẫn hẳn vẹn mười thơm tho.
Mũ ta đội xốc cho cao ngất,
Đai ta đeo buông thật dịu dàng.
Khắp mình thơm nức sáng choang,
Đẹp còn giữ được chất thường chưa phai.
Chợt quay lại liếc chơi, ta muốn
Đi xem cho khắp bốn cõi hoang.
Rung rinh bao thú điểm trang
Ngọt ngào càng thấy rõ ràng mùi thơm.
Đời ai cũng riêng ham từng món,
Như ta đây chỉ muốn làm xinh.
Phân thây xé xác cũng đành,
Lòng này hồ dễ dỗ dành được sao?
Tiếng cô chị bước vào léo xéo,
Mắng ta rằng rõ khéo ngẩn ngơ,
“Bướng như chàng Cổn ngày xưa,
Bỏ mình núi Vũ bây giờ ai thương?
Sao em thích khoe khoang chải chuốt,
Riêng một mình giữ một vẻ xinh?
Đầy nhà dây dợ, cỏ tranh,
Người ta mặc cả sao mình lại không?
Nói với chúng dễ hòng nói xiết!
Ai là người xét biết lòng ta?
Đời đều bè đảng gian tà,
Một mình ta nói, nói mà ai nghe?”
Trong đạo thành liệu bề theo dõi,
Đến chi đây xiết nỗi tân toan.
Sang Nam qua ngọn Tương Ngoan,
Tới đền vua Thuấn, ta than vài lời:
“Mê hát xướng kìa đời nhà Hạ,
Vua Thái Khang thoả dạ vui chơi,
Chẳng lo chẳng nghĩ lâu dài,
Năm con mới phải lạc loài bốn phương.
Vua Nghệ chỉ ham đường săn bắn,
Say chim muông quên hẳn việc thường.
Tham vui vua Xác hoang toàng,
Cả hai đều phải thịt xương tan tành!
Đến vua Ngáo cậy mình sức khoẻ,
Chẳng giữ gìn chỉ phí ăn chơi.
Quên mình ngày tháng giông dài,
Quá ra khi đã để rơi cả đầu.
Hạ Kiệt có biết đâu đạo cả,
Lần lữa trông tai vạ đến nơi.
Vua Tân ướp món thịt người,
Cũng vì thế mới hết đời nhà Thương!
Lại xét đến Vũ, Thang, Văn, Võ
Kính mà nghiêm chẳng bỏ đạo hằng.
Cất dùng toàn bọn tài năng,
Theo khuôn giữ mực thẳng băng một chiều.
Ông trời chẳng riêng yêu ai hết,
Xem thấy ai đức nết thì nên.
Xưa nay chỉ bậc thánh hiền,
Thương dân mới được cầm quyền trị dân.
Trông sau trước xét lần sự thế,
Hãy để tâm suy nghĩ cho cùng.
Làm đâu được việc bất công!
Những phường bất nghĩa có dùng được đâu.
Lòng này nghĩ trước sau như một,
Dẫu chết ngay chẳng chút nôn nao.
Người xưa oan thác biết bao,
Theo vuông lựa có vào sao lỗ tròn.
Nức nở khóc cho buồn đầy dạ,
Tủi cho thân sinh đã lỗi thời!
Gạt sầu bứt cánh huệ tươi,
Áo khăn lã chã lệ rơi ướt đầm!
Quỳ khép áo lầm rầm khấn vái:
“Xin dốc theo lẽ phải đường ngay!”
Quay ra đạp gió rẽ mây,
Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.
Sớm Thương-Ngô, chiều qua Huyền Phố,
Đến thần linh xa ngó cõi ngoài.
Chốn này muốn tạm nghỉ ngơi,
Chiều hôm bảng lảng mặt trời xuống nhanh.
“Hy Hoà hỡi nể tình ta với!
Lối non đoài chớ vội xông pha.
Quản bao nước thẳm non xa,
Để ta tìm kiếm cho ra bạn lòng!”
Cho ngựa uống bên đồng Dục Nhật,
Buông dây cương ở đất Phù Tang.
Nhởn nhơ chốc lát dọc đường,
Bẻ cành nhược mộc chăng ngang mặt trời.
Chị trăng phải nhanh chân tiến trước,
Dì gió cho lần bước theo sau.
Chim loan mở lối đi đầu,
Nhưng thầm sấm sét dốc hầu chưa xong!
Ta giục phượng gia công bay mãi,
Suốt ngày đêm rong ruổi cho mau.
Cơn giông bão táp theo hầu,
Cầu vồng mống cụt đem nhau đến chào.
Khắp các ngã trước sau tới tấp,
Đủ mọi mầu trên dưới tơi bời...
Ta truyền mở cửa nhà trời!
Lính canh lại tựa cửa ngoài nhìn ta.
Người mỏi mệt trời đà sẩm tối,
Đứng bơ phờ tay với bông lan.
Cõi đời nhơ đục muôn vàn,
Ghét tài, ghét đẹp, thói càn đã quen.
Sớm dóng ngựa qua miền Bạch Thuỷ,
Lên Lãng Phong ta sẽ dừng cương.
Không ai là gái đảm đang,
Trông về nước Sở gạt hàng lệ rơi.
Chơi cung Xuân này nơi thanh nhã,
Đeo dắt thêm hai đoá hoa quỳnh.
Hoa tươi còn chửa lìa cành,
Xem ai là gái hữu tình ta đưa.
Sai thần mây đi mưa về gió,
Cung Phục Phi tìm rõ tới nơi.
Mối may ta lại cậy người,
Cởi dây đeo để ngỏ lời giao đoan.
Trải mấy độ qua ngàn vượt núi,
Bỗng dọc ngang đường lối khó thông.
Chiều hôm về nghỉ non Cùng,
Sớm ra gội tóc trên sông Vị Bàn.
Nàng cậy đẹp khinh nhờn quen thói,
Quên tháng ngày, mê mải dong chơi.
Đẹp nhưng mất nết xin thôi,
Bỏ tìm chốn khác lấy người đoan trang.
Vùng trời rộng bốn phương man mác,
Xem khắp rồi lại bước xuống đời.
Hữu nhung trông với cõi ngoài,
Long lanh đền ngọc thấy người gái xinh.
Mượn chim trấm mối manh nói hộ,
Trấm trả lời: “Việc đó không xuôi!”
Kìa chim tu hú dại đời,
Ta còn ghét nó là loài tinh ranh.
Mình khuây khoả lấy mình chẳng nối,
Lòng hồ nghi trăm mối vấn vương.
Chịu lời ta đã phượng hoàng,
Chỉ e ta đến sau chàng Cao Tân.
Xa tìm chốn yên thân chẳng có,
Đành lênh đênh đây đó biết sao!
Thiếu Khang đang lúc ba đào,
Họ Kiều hai gái sánh vào vừa xinh.
Lý đã kém mối manh lại vụng,
Chỗ hẹn lời e cũng không bền.
Người đời bẩn tưởi nhỏ nhen,
Chuộng bên gian ác, ghét bên hiền tài.
Buồng the đã là nơi cách trở,
Nhà vua còn đang cữ mê say.
Ôm lòng biết ngỏ ai hay,
Bước đời nhịn mãi nước này được sao.
Chẻ nắm quẻ Quỳnh-mao làm thẻ
Mượn Linh-phân gieo quẻ nhân duyên.
Quẻ rằng: “Ao ước thì nên,
Bên tài bên sắc đôi bên cùng lòng.
Nghĩ chín cõi mênh mông rộng rãi,
Phải riêng đây có gái kén chồng?
Đường xa xin chớ ngại ngùng,
Người xinh ai chẳng đem lòng khát khao?
Cỏ thơm kể nơi nào chẳng có,
Thương tiếc chi quê cũ nữa anh!
Quáng loà bao kẻ chung quanh,
Dở hay ai xét cho mình nữa đâu!
Lòng yêu ghét khác nhau biết mấy!
Bọn chúng coi thật thấy lạ đời.
Cỏ hôi đeo dắt đầy người,
Hoa lan thơm ngát chê bai chẳng dùng.
Loài cây cỏ còn không phân biệt,
Giống ngọc lành xét biết đâu mà!
Phân tro xếp đống đầy nhà,
Cánh hồi cánh quế chê là không thơm”
Quẻ dạy thế, ở làm chi nữa!
Nhưng lòng còn lưỡng lự chưa đi.
Chiều nay sắp đặt lễ nghi,
Mời Vu Hàm lại ta thì hỏi han.
Chín dãy núi chập chờn đón rước,
Trăm vị thần chững chạc tới nơi.
Hào quang rực rỡ đầy trời,
Vì ta dạy hết mọi lời thuỷ chung.
Rằng: “Lên xuống cố công tìm hỏi,
Ai cùng mình khuôn lối như in.
Vũ, Thang kén lựa tôi hiền,
Chí Cao Dao được chúng tin yêu vì.
Quả là đẹp cứ gì tốt mối!
Giá ngọc lành há phải bán rong!
Duyệt xưa đắp đất ngoài đồng,
Vũ Đinh tìm gặp tin dùng chẳng nghi.
Lã Vọng trước làm nghề bán thịt,
Gặp Văn Vương mới biết tướng tài.
Chăn trâu Ninh Thích hát chơi,
Tề Hoàn nghe đã cho vời làm quan.
Tuổi chưa muộn lo toan còn kịp,
Thời đang vừa thu xếp đi cho!
Véo von đề quyết gọi thu,
Trăng hoa e lúc thơm tho chẳng còn!
Vòng hoa quỳnh đẹp giòn biết mấy,
Che lấp đi ai biết vẻ xinh!
Ghét ghen chúng chẳng thương tình,
E khi giập gãy tan tành biết đâu.”
Trách thời tiết thật mau thay đổi,
Nào lữa lần được mãi cho cam.
Hoa lan giờ đã hết thơm,
Hoa lài hoa huệ hoá làm cỏ tranh...
Bao nhiêu giống hương thanh sắc đẹp,
Đều dốc đời đổi kiếp hôi tanh.
Không năng chải chuốt làm xinh,
Tại ai đâu, chỉ tại mình đấy thôi.
Lan ta tưởng đáng nơi tin cậy,
Có ngờ đâu bóng bẩy mà hư.
Theo đời bỏ vẻ đẹp xưa,
Đua đòi cẩu thả cũng như mọi loài.
Tiêu bợ đỡ nịnh đời ra mặt,
Túi thuốc trừ nhét chặt thù du.
Đem thân cầu cạnh bôn xu,
Còn đâu giữ được thơm tho tính trời.
Thói thường vốn theo thời thay đổi,
Ai giữ mình cho khỏi suy di!
Tiêu Lan còn chả ra gì,
Trách chi đến sói, kể chi đến nhài!
Riêng hoa quỳnh thật loài đáng quý,
Tới nay còn giữ vẻ năm xưa.
Hương còn thoang thoảng xa đưa,
Đẹp còn nguyên vẹn vẫn như ngày nào.
Tự an ủi, theo vào mực thước,
Ngắm hoa đeo ngày trước còn xinh.
Khắp vùng trời đất mông mênh,
Tìm cho thấy bạn hữu tình mới thôi.
Linh phân dạy: “Quẻ coi tốt lắm!”
Chọn ngày lành ta sắm sửa đi.
Hoa quỳnh bẻ lấy phòng khi,
Cành thì làm bánh, cánh thì làm cơm.
Lộn ngà ngọc đóng làm xe cưỡi,
Kéo xe ta phất phới rồng bay.
Đi cho vắng mặt khuất mày,
Lòng lìa, thế bắt thân này phải xa!
Đường thăm thẳm trông ra quanh quất
Hãy vòng xe qua đất Côn Luân.
Vang vang nhạc ngọc thét dồn,
Mây màu lấp lánh vây tròn trước sau.
Sớm bên trời bắt đầu rong ruổi,
Chiều hôm ta tới cõi cực tây.
Trước xe đón ngựa cờ bay,
Phượng hoàng vỗ cánh tung mây tuyệt vời.
Chốc ta lại qua chơi bể Cát,
Theo dòng sông bát ngát đỏ ngầu.
Thuồng thuồng sửa bến cho mau!
Bảo Tây hoàng phải bắc cầu ta sang.
Xa thăm thẳm cõi đường hiểm trở,
Dồn các xe giúp đỡ ta cùng.
Bất Chu lối tả đi vòng,
Hẹn ngày tháng chỉ qua vùng biển tây.
Đều tay sắp giật dây cương ngọc,
Nghìn xe cùng một lúc ra đi.
Tám rồng bay lộn trước xe,
Cờ bay phất phới bóng che rợp trời.
Hãy ngừng bước, tạm nguôi dạ tủi,
Buông thần hồn lên cõi cao xa.
Múa Thiều hát khúc Cửu ca,
Tháng ngày thong thả liệu mà làm khuây.
Cất mình khoảng trời mây rộng rãi,
Chợt ngoảnh đầu trông lại quê hương.
Ngựa buồn, đầy tớ thảm thương,
Co ro nhớn nhác, ngại đường chẳng đi.
Vãn rằng:
Thôi than tiếc làm chi cho cực!
Biết ta đâu một nước không người.
Chính lành làm sức với ai,
Bành Hàm đâu đó ta thời đi theo.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
☆☆☆☆☆
UYÊN QUANG sưu tầm và chia sè.
Phụ lục:
Nhượng Tống (1904-1949) là dịch giả tài hoa, nhà cách mạng, nhà thơ, nhà văn, tên thật là Hoàng Phạm Trân, do bút danh Nhượng Tống nên còn gọi là Hoàng Nhượng Tống. Ngoài ra ông còn dùng bút hiệu Mạc Bảo Thần. Ông quê ở làng Đỗ Hoàng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân sinh ông là cụ Hoàng Hồ, một danh sĩ đời nhà Nguyễn nổi tiếng chống Pháp. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của ông sau này.
Cuối năm 1925, ông cùng với Phạm Tuấn Lâm và Phạm Tuấn Tài thành lập ra Nam Đồng thư xã ở số 6 đường 96 khu Nam Đồng (bên bờ hồ Trúc Bạch, Hà Nội), chuyên trước tác, dịch thuật và xuất bản các sách tuyên truyền chủ nghĩa ái quốc, như: Cách mạng Trung Hoa, Lịch sử Tôn Dật Tiên, Cách mạng thế giới, Chủ nghĩa Tam Dân, v.v.
Nỗi sầu này này dài quá
Trả lờiXóa