Nhờ vào sự sắp xếp cẩn thận của người thân tại Nhật và internet, chuyến du hành Nhật Bản phần lớn bằng xe lửa siêu tốc Shinkansen đã đưa tôi đi qua hàng ngàn cây số, ngang dọc miền Tây Nam nước Nhật bao gồm ba đảo lớn Honshu, Shikoku và Kyushu. Trong vòng mười ngày, tôi đặt chân đến những thành phố lớn, thị trấn nhỏ, đi tham quan các di tích lịch sử, những khu du lịch thời thượng và đến tận vùng “hoang vu” quê mùa.
Xe lửa siêu tốc Shinkansen
Với cái vé Japan Rail Pass giá đặc biệt cho du khách nước ngoài, người ta có thể dùng xe lửa các loại đi khắp nơi, kể cả xe lửa siêu tốc (bullet train) Shinkansen, với số lần sử dụng vô hạn định trong một thời gian được qui định trước. Có thể nói xe lửa Nhật là một hệ thống giao thông công cộng hoàn hảo bậc nhất thế giới. Giờ đi giờ đến được thiết kế chính xác từng phút và áp dụng nghiêm chỉnh từ xe vài toa chạy chậm ghé từng nhà ga ở vùng quê tới xe lửa siêu tốc Shinkansen đi xuyên qua các thành phố lớn nhỏ ở chốn phồn hoa đô hội.Xe lửa Shinkansen là một niềm tự hào của người Nhật. Hơn 44 năm qua (từ năm 1964), Shinkansen là một phương tiện di chuyển nhanh được thiết kế chạy trên đường ray cổ điển bình thường và chưa một lần xảy ra tai nạn. Từ đống tro tàn chiến bại của Đệ nhị Thế chiến, chính phủ Nhật Bản đã có một tầm nhìn chiếc lược khôn ngoan là đối với một quốc gia đất hẹp người đông, Nhật Bản cần một hệ thống đường sắt mới (Shinkansen có nghĩa là “tuyến đường mới”) cho xe siêu tốc để gia tăng sự di động của dân chúng giữa các thành phố lớn và cũng để kích thích nền kinh tế qua giao thông. Để thực hiện dự án mang tính cách mạng này chính phủ Nhật đã kiên nhẫn thuyết phục Ngân hàng Thế giới cho vay 80 triệu USD (không bị cắt xén vì tham nhũng!) để xây đoạn đường sắt đầu tiên Tokyo – Osaka (600 km) và khánh thành năm 1964 vài tháng trước Tokyo Olympic. Thời gian đi lại giữa hai thành phố này giảm từ 7 tiếng xuống còn 3 tiếng. Ở thập niên 1960, đây là một kỳ tích của thế giới. Trong bốn mươi năm qua, tốc độ của xe Shinkansen tăng từ 200 km/h đến 250 km/h, 280 km/h và bây giờ 300 km/h. Đầu xe bây giờ đa dạng hơn, không còn hình dạng “đầu đạn” nguyên thủy nữa mà trở nên dài ra hình mỏ vịt. Theo sự quan sát của tôi thì đường ray không thay đổi nhưng đầu xe đã được thiết kế nhiều dạng khác nhau để gia tăng hiệu quả khí động lực học làm giảm sức cản không khí.
Lịch sử phát triển đường sắt gắn liền với sự phát triển đời sống của người dân và nền kinh tế Nhật Bản. Cùng một nhịp điệu phát triển với xe siêu tốc Shinkansen, những chuyến tàu chậm địa phương cũng được nâng cấp toàn bộ. Xe lửa Nhật cũng đã có một thời kỳ mông muội sơ khai. Nhớ lại vài thập niên trước, bàn cầu toilet của những chuyến xe lửa nhà quê lên tỉnh chỉ là một lỗ trống thông ra bên ngoài. Có nghĩa là những sản phẩm bài tiết cứ thế đi thẳng xuống đường ray, “gởi gió cho mây ngàn bay”. Vì vậy trước khi tàu dừng ở ga, ông trưởng tàu lúc nào cũng ân cần dặn dò hành khách ráng kiên nhẫn ngừng lại những hoạt động bài tiết! Nhưng đây là chuyện của quá khứ. Những chuyến tàu liên tỉnh giờ đây đèn đuốc sáng choang, ghế bọc da đẹp hơn ghế cấp business hàng không, toilet có cửa tự động, sạch sẽ rộng rãi như một en-suit trong khách sạn.
Tôi và người thân đến thành phố Kochi (tỉnh Kochi) trong một ngày nắng ấm. Kochi là một tỉnh phía Nam của đảo Shikoku rất phong phú về nông và hải sản; phía nam nhìn ra Thái bình dương, phía bắc có rừng núi vây quanh. Shikoku là đảo nhỏ nhất trong bốn đảo chính, Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku tạo thành nước Nhật. Kochi nổi tiếng với những dòng sông lớn. Nói là sông lớn nhưng đó chỉ là những dòng chảy ngắn và nhỏ khi so với những chi lưu của dòng Mekong. Chúng tôi đến thăm dòng sông Shimanto. Người ta gọi Shimanto là “dòng sông xanh cuối cùng” của nước Nhật vì đây là dòng sông duy nhất không có đập nước. Từ thành phố Kochi đến Shimanto không hơn 120 km nhưng cũng phải vượt qua gần 50 cái đường hầm xuyên chân núi dài ngắn khác nhau, khi vài chục thước khi vài cây số. Dọc hai bên đường ô tô hay xe lửa là những thửa ruộng nhỏ vài chục mét vuông hay nhiều lắm vài hecta nối tiếp nhau bị ngăn chia bởi núi đồi. Địa hình của toàn thể nước Nhật cũng tương tự như vậy với 70 – 80 % bao phủ bởi rừng núi. Những cánh đồng ngút ngàn như đồng bằng sông Cửu Long không hiện hữu trên đất nước cằn cỗi này. Kỹ thuật đào đường hầm hay đào lòng biển của Nhật vì vậy đạt mức hàng đầu thế giới.
Dòng sông này không phải là Vườn quốc gia (National Park) mà chỉ là một nơi bình thường với ngư dân sống lác đác dọc hai bên bờ. Sự hiện đại hóa của nước Nhật để lại rất ít những hình ảnh hoang vu như cảnh vật dòng Shimanto. “Dòng sông xanh cuối cùng” cũng là một con sông ngắn với dòng chảy êm đềm. Ngư dân ở đây vẫn còn giăng lưới bắt cá hoặc lươn, một việc bình thường ở Việt Nam nhưng lại là những cảnh quan hiếm thấy tại Nhật. Cuộc sống bươn chảy, lao lướt của thành phố khiến người Nhật phải tìm đến những miền hoang dã như dòng sông Shimanto để hòa điệu cùng thiên nhiên, tìm về cái yên tĩnh và mộc mạc của nước Nhật 50 hoặc 100 năm trước.
Kochi: Ôn tuyền lữ quán
Nước Nhật bị công nghiệp hóa và người Nhật bị “stressed” cao độ. Có dịp, họ ùa nhau đi tìm sự thư giãn nơi mà họ có thể “yukkuri dekiru” (được thoải mái). Khi đi du lịch họ trú ngụ ở nhà khách truyền thống gọi là “ôn tuyền lữ quán” (nhà khách với suối nước nóng). Những lữ quán này có phục vụ trọn gói với phòng ngủ chiếu tatami, tắm suối nước nóng, ăn tối và ăn sáng theo phong tục Nhật. An Nam ta có “tứ khoái”, nhưng tôi nghĩ Phù Tang hơn ta một “khoái”, có đến “ngũ khoái”! Cái khoái thứ năm là thú tắm suối nước nóng. Nằm trong vòng lửa Thái Bình Dương, nước Nhật từ Nam chí Bắc đầy nguồn suối nước nóng, rải rác khắp nơi. Những “ôn tuyền lữ quán” mọc lên ở những địa điểm du lịch tạo ra khu thư giãn cuối tuần hay ngày lễ cho dân thành phố. Đây là nơi những cặp vợ chồng son cũng như những cặp vợ chồng luống tuổi, cụ ông cụ bà, hay là một nhóm đồng nghiệp lui tới cùng nhau thoải mái trong bể suối nước nóng, rồi sau đó tận hưởng các món cá, mực sống sashimi truyền thống, cùng khề khà chén chú chén anh qua cốc rượu sake. Nơi chúng tôi trú ngụ là một “ôn tuyền lữ quán” nổi tiếng Kochi với cái tên rất nên thơ “Thành Tây Quán” (Joseikan).
Các nghi thức hành xử (etiquette) trong bể nước nóng từ xưa đối với người Nhật đã trở thành một qui luật bất thành văn. Nhưng gần đây có lẽ lối thư giãn này hấp dẫn khách nước ngoài nên phải có “qui luật thành văn” phụ đề Anh ngữ, treo ở cửa ra vào. Rằng là bất kỳ nam phụ lão ấu phải hoàn toàn “như nhộng” không được mặc một thứ gì trên người kể cả đồ tắm; rằng là không được ồn ào, không được uống rượu, phải dội nước sạch sẽ trước khi ngâm mình trong bể; rằng là người có máu cao, mang thai chớ có liều lĩnh mà thọt cẳng vào. “Ôn tuyền lữ quán” nơi tôi trú ngụ thuộc hạng 5 sao nên ban quản lý càng chi tiết hơn về vệ sinh cá nhân. Rằng người nào có ghẻ nhọt thì không nên vào, nhưng ai mang bịnh trĩ thì cứ thoải mái không sao!
Bể nước được đặt trong một khoảng không gian rộng rãi, nước suối được mang từ ngoài vào chảy róc rách, được pha với nước lạnh để điều chỉnh nhiệt độ khoảng 42 – 45° C. Tôi tò mò tìm hiểu cái bảng phân tích treo bên cạnh bể; bảng liệt kê các chất khoáng chứa trong nước và các thứ bệnh như đau lưng, đau khớp, phong thấp, tay chân rỉ mồ hôi… mà nguồn suối này có khả năng trị liệu. Tôi từ từ ngâm mình vào nước, vừa lim nhim đôi mắt, vừa lắng tai nghe tiếng nước chảy để gia tăng sự đê mê trong bầu không khí đầy hơi nước, tận hưởng cái cảm giác râm ran của những làn nước nóng tưởng chừng như xuyên qua từng lỗ chân lông, đi vào từng thớ thịt. Bên cạnh cái bể lớn là cái bể nhỏ có cùng một nguồn nước nhưng treo thêm một cái bao rất to, hăng hắc mùi thuốc. Bảng phân tích cho biết cái bao này chứa 10 vị thuốc Bắc như đơn qui, trần bì (vỏ quít), cam thảo, quế, gừng…, chuyên trị năm ba thứ bệnh linh tinh khác. Kiểm điểm lại thì tôi thấy không bị mắc thứ bệnh nào, nhưng tiện chân nhảy vào cho mát da mát thịt. Sau khi tắm và ngâm trong suối nóng, tôi được trao cái áo yukata, một loại kimono nhẹ, mặc qua đêm và dùng cơm tối. Tôi súng sính mặc vào, choàng thêm một cái áo ngắn tay, ngắm tới ngắm lui, đi qua đi lại. Oai phong lắm lắm! Chỉ cần có thêm một búi tóc phía sau và cạo đầu chừa một chỏm tóc phía trước, bên hông vắt theo thanh kiếm dài katana là tôi biến thành samurai của thế kỷ 18!
Triết lý nhân sinh của người Nhật tập trung ở chữ “hòa” (hòa hợp, hòa bình). Sự giao tế giữa con người hay giữa con người với thiên nhiên xoay quanh chữ “hòa”. Ngay trong ẩm thực, tôi cũng cảm thấy cái “hòa” khi ăn một miếng sashimi chấm nước tương với wasabi rồi uống một ngụm nhỏ sake. Cái cay nồng của wasabi xông lên mũi chảy nước mắt dường như được “hòa” dịu bằng cái cay của hơi sake hâm nóng. Thêm cái dư âm lâng lâng, sảng khoái còn phảng phất sau cuộc ngâm mình trong bể nước suối “hòa” lẫn cái ngà ngà của men rượu, “mượn ba chén dập dìu trăng gió” [1]. Hai ba cái “khoái” cùng hòa hợp một lúc tạo ra hiệu ứng cộng hưởng đồng loạt (synergetic) cho ta một cảm giác tuyệt vời, không thể nào dùng lời tả hết…
Hiroshima: Bom nguyên tử
Tôi từ giã người thân và từ đảo Shikoku vượt Đại kiều (cầu lớn) Seto được bắc trên năm hòn đảo nhỏ nối liền hai đảo Shikoku và Honshu đi đến thành phố Hiroshima bằng chuyến tàu siêu tốc Shinkansen. Mới hai ngày trước, bầu trời mùa Thu trong xanh ấm áp bao nhiêu, thì bây giờ ảm đạm lạnh lẽo bấy nhiêu. Tôi nhìn bản đồ tìm về hướng Công viên Hòa bình. Ngọn gió đầu Đông mơn man thổi, những chiếc lá vàng bay lả tả như cánh bướm dọc theo một bờ sông nhỏ trong thành phố. Trong khung trời lãng mạn này, bỗng nhiên xuất hiện quang cảnh hoang tàn của tòa nhà bị bom nguyên tử. Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử đầu tiên đã nổ trên không cao 600 m trên tòa nhà này, để trơ lại cái vòm sắt và những bức tường đổ nát. Sức nóng tỏa ra từ quả bom làm sạm đen bề mặt bức tường tưởng chừng như mới xảy ra, mặc dù đã hơn 60 năm qua.Bên kia bờ sông là Công viên Hòa bình với Nhà Bảo tàng Hòa bình lưu trữ hình ảnh, hiện vật và tài liệu về hậu quả của quả bom nguyên tử Hiroshima. Ở giữa công viên, người ta xây một cái vòm tưởng niệm bằng đá hoa cương đơn giản không cao lắm. Đứng nhìn từ xa, cái vòm đá này như bao trọn tòa nhà bị bom ở phía xa xa, như che chở những linh hồn vô tội. Trong vòm đá người ta khắc một hàng chữ Nhật để tưởng nhớ cũng như để nhắn nhủ đến hàng trăm ngàn vong linh chết oan ức: “Xin hãy ngủ yên, vì lỗi lầm này sẽ không bao giờ lập lại”.
Trong Nhà Bảo tàng, hiện vật do hậu quả bom nguyên tử gây ra được trưng bày với lời giải thích tỉ mỉ và những hình ảnh kinh hoàng gây trên cơ thể con người khiến người xem không cầm được nước mắt hay phải nhắm mắt bỏ ra ngoài. Từ trung tâm bom nổ đến phạm vi bán kính 1 km, người ta chết tức khắc vì sức nóng. Nhiệt tỏa ra từ quả bom nóng đến độ làm mềm gốm sứ và tan chảy kim loại trong vòng bán kính 600 – 700 m. Ta có thể đoán sức nóng ít nhất phải trên 1000 °C. Toàn thể những tài liệu hướng dẫn, lời ghi chú, giải thích ở Nhà Bảo tàng, tôi không thấy xuất hiện những ngôn từ mang tính chất khiêu khích, hiếu chiến như “tội ác”, “hận thù”, “đế quốc” hay “xâm lược”.
Tôi chú ý đến bức hình của Albert Einstein chụp chung với nhà vật lý người Mỹ gốc Hung gia lợi, Leo Szilard, trong thời gian khi hai người cùng thảo bức thư đề nghị tổng thống Roosevelt làm bom nguyên tử (năm 1939). Bản copy của bức thư định mệnh này mang địa chỉ nhà riêng và chữ ký của Einstein được trang trọng để trong lồng kính. Có một đoạn quan trọng của bức thư được tô đỏ và dịch ra tiếng Nhật. Trong đoạn này Einstein nói đến khả năng làm một loại bom cực kỳ mạnh với sức tàn phá vô song chưa từng thấy và khẩn thiết đề nghị tổng thống Mỹ lập ra một chương trình chế tạo loại bom này. Đọc xong bức thư, Roosevelt không chần chừ do dự và chương trình cực mật Manhattan ra đời.
Việc Einstein đề nghị làm bom nguyên tử là một thường thức lịch sử, nhưng khi đối mặt với bức thư định mệnh này, tôi sốc. Tôi lặng lẽ bước ra ngoài thầm nghĩ Einstein không những là một thiên tài khoa học mà cũng là một con người đạo đức đầy tính nhân bản, ông tranh đấu cho công bằng xã hội, dân chủ, sự thật, nhân quyền suốt cả đời người. Là một người làm khoa học và hiểu rõ sức mạnh của công thức E = mc2, phương trình cơ bản cho việc chế tạo bom nguyên tử, Einstein thừa hiểu đây là một loại vũ khí hủy diệt. Nhưng động cơ nào đưa đẩy ông vào cõi vô minh, khiến ông có thể viết một bức thư khuyến khích các chính trị gia lao đầu vào cuộc thí nghiệm trên cơ thể con người bằng phương pháp thảm sát tập thể đồng loại, tàn phá môi sinh, chưa nói đến những cuộc chạy đua vũ khí hạch nhân cho đến ngày hôm nay? Tôi thật sự hoang mang, không tìm ra câu trả lời.
Qua cửa sổ tầng hai của Nhà Bảo tàng, tôi nhìn thấy vòm tưởng niệm đá hoa cương và tòa nhà bị bom thấp thoáng đàng xa. Ánh sáng ban mai xuyên qua kẽ hở của những cụm mây dày mùa Thu làm rực sáng bãi cỏ xanh bên dưới; nổi bật lên những chiếc áo đồng phục màu vàng của đám trẻ con lớp mẫu giáo đang tung tăng theo cô giáo như đàn gà con theo mẹ. Tôi vừa xốn xang nhìn về một quá khứ kinh hoàng, vừa đăm chiêu chiêm ngưỡng một hiện tại an bình. Chưa bao giờ trong tôi lại nổi lên một tình cảm chán ghét chiến tranh đến thế…
Hiroshima: Miyajima
Hiroshima không phải chỉ có bom nguyên tử. Cách thành phố một giờ xe lửa và qua một con phà sẽ đưa ta đến đảo Miyajima. Đứng trên con phà, ta sẽ thấy cái cổng đền (tiếng Nhật gọi là torii) cao 15 m màu đỏ rực xuất hiện từ xa, đứng sừng sững như in trên nền màu xanh tươi của rừng núi phía sau. Đây là một kiến trúc đặc thù Nhật Bản và cũng là hình ảnh biểu tượng của đất nước Thái dương Thần nữ. Torii là cổng dựng trước những ngôi đền Thần đạo (Shinto). Kiến trúc những đền Thần đạo hay chùa Phật giáo mang một sắc thái đặc biệt Phù Tang. Với những nét chấm phá đơn giản, hình dạng và độ cong của mái ngói, chúng dễ dàng phân biệt được với những kiến trúc Trung Quốc.Nagasaki: Thành phố lịch sử
Từ Hiroshima tôi tiếp tục cuộc hành trình đi về hướng Tây tiến về đảo Kyushu đến thành phố Nagasaki. Việc nối kết bốn hòn đảo chính bằng cầu hay đường hầm chạy dưới lòng biển là một kế hoạch manh nha từ thời Minh Trị Duy Tân. Đến ngày hôm nay, Nhật đã hoàn thành tất cả những kế hoạch này và đây là những công trình vĩ đại của lịch sử công nghệ xây dựng. Từ đảo Honshu qua đảo Kyushu một đường hầm dài gần 19 km xuyên qua lòng biển đã được thực hiện cho xe lửa siêu tốc Shinkansen có thể chạy đến 300 km/h.Nagasaki là một thành phố cảng ở phía Tây Bắc đảo Kyushu, nằm ở một vị trí chiến lược gần bán đảo Triều Tiên, đại lục Trung Quốc và Đài Loan. Nagasaki là cái nôi của nền khoa học kỹ thuật hiện đại Nhật Bản, mang một ý nghĩa lịch sử sâu sắc trong việc canh tân biến nước Nhật từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một cường quốc ngang hàng với phương Tây ở thế kỷ thứ 19. Nagasaki là thành phố thứ hai bị bom nguyên tử. Khi người Nhật chưa hết bàng hoàng vì quả bom Hiroshima, thì ba ngày sau Mỹ bỏ quả bom thứ hai trên thành phố này.
Ngược dòng lịch sử, trở về quá khứ. Từ thế kỷ thứ 16, Nagasaki trở thành một cảng quốc tế giao thương với người Trung Quốc và các thế lực Âu Tây đương thời như Bồ Đào Nha và Hà Lan. Cũng từ Nagasaki, các đội thương thuyền Nhật Bản vượt trùng dương buôn bán với Trung Quốc, Việt Nam (Phố Hiến, Hội An), Campuchia, Phillipine, Thái Lan và đến tận Indonesia và Mã Lai. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha sớm mang Ky-tô giáo đến truyền bá trên đất nước Thái dương Thần nữ và xây nhiều giáo đường trước khi chính quyền Mạc Phủ ra lệnh “tỏa quốc” (sakoku, tức là bế quan tỏa cảng), cấm đạo, trục xuất người Bồ Đào Nha và giết giáo sĩ [2]. Số người Nhật theo Ky-tô giáo rất ít, nhưng không ở đâu trên nước Nhật dấu ấn của Ky-tô giáo đậm đà và sâu sắc như tại Nagasaki. Hàng chục giáo đường lớn nhỏ tại Nagasaki và những vùng lân cận vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các vị nữ tu thường đi lại trên đường phố hay trên các phương tiện giao thông công cộng; một cảnh tượng hiếm thấy trong các thành phố Nhật Bản. Nhiều giáo đường trở thành Quốc Bảo (di sản quốc gia) được chính phủ hay các hội đoàn địa phương trùng tu liên tục. Người Trung Quốc cũng di dân đến Nagasaki từ thời mạt Minh và đến khi nhà Thanh thành lập số người Hoa gia tăng, mang theo tinh thần “phản Thanh phục Minh” chờ dịp lật đổ triều đình Mãn Thanh. Sự ngẫu nhiên lịch sử đã đưa đẩy Nagasaki trở thành giao điểm của hai nền văn hóa Đông và Tây, đi song song và bổ sung nhau, tạo thành một nét đặc thù văn hóa không tìm thấy ở các thành phố khác của Nhật.
Nagasaki: Nàng công nương họ Nguyễn
Ở giữa con đường xóm Chùa là Đại Âm Tự (Daionji). Ngôi chùa này có ít nhiều liên hệ đến Việt Nam. Phía sau ngôi chùa là một nghĩa trang lâu đời dọc theo triền núi, có hàng ngàn, chục ngàn ngôi mộ chôn hài cốt của giai cấp quí tộc và giai cấp võ sĩ “samurai” vài trăm năm trước [3]. Dựa theo thông tin của một ông bạn tại Nagoya, tôi đến thăm chùa với mục đích tìm ngôi mộ của một vị công nương Việt Nam, con của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên được gả về Nagasaki năm 1619, kết hôn với Araki Sotaro (Hoang Mộc Tông Thái Lang), một thương nhân nổi tiếng đương thời và cũng là nhà hàng hải kiệt xuất thuộc dòng dõi samurai. Đại Âm Tự là một trong những ngôi chùa lớn tại Nagasaki. Tiếc rằng, trận hỏa hoạn năm 1959 đã thiêu hủy toàn thể ngôi chùa. Chùa được xây cất lại nhưng vẻ cổ kính không còn như xưa.Tôi đi đến văn phòng chùa hỏi thăm địa điểm ngôi mộ cổ. Bà quản lý tử tế chỉ dẫn và nhanh nhẹn lướt qua một số tài liệu, in ra cho tôi một trang nói về phần mộ của dòng họ Araki. Thì ra, ngôi mộ được chỉ định là “Sử tích của thành phố Nagasaki”. Tôi thầm phục cách lưu trữ tài liệu, phân loại và xử lý văn bản lịch sử của người Nhật. Chỉ trong vòng vài phút, một người quản lý bình thường của một ngôi chùa có thể tìm ra tên tuổi người quá cố qua đời vài trăm năm trước giữa hàng chục ngàn cái tên khác.
Cuộc đời của Araki Sotaro và công nương Việt Nam Wakaku sẽ có rất ít người biết nếu chỉ dựa vào bảng tiểu sử ở một nghĩa trang heo hút và tài liệu “đóng bụi” của Đại Âm Tự. Nhưng câu chuyện tình Nhật Việt này đã được mang ra trình bày và giải thích bằng hai thứ tiếng Nhật và Anh cùng với những mẩu chuyện khác về Nagasaki ở thế kỷ 17, 18 tại địa điểm tham quan lịch sử Dejima (đề cập ở phần sau). Tài liệu Nhật còn cho biết khi nàng Wakaku cập bến Nagasaki, một cuộc đón tiếp long trọng được tổ chức để đón cô dâu quí tộc đến từ Nam quốc xa xôi. Trang phục của cô dâu đã gây một ấn tượng đặc biệt cho người dân Nagasaki và từ đó về sau nó trở thành một tiết mục thời trang cho lễ hội (matsuri) hàng năm của thành phố đến tận ngày hôm nay. Trong khi đó, lịch sử Việt Nam không có một dòng chữ nào đề cập đến số phận của nàng công nương xa xứ họ Nguyễn.
Phải công nhận rằng người Nhật có cách quảng bá lịch sử rất sáng tạo và khoa học. Ở những địa điểm du lịch, họ dựng bảng giải thích các di tích với hình ảnh, bản đồ, niên biểu, và lời dịch tiếng Anh rất chính xác, gần đây thêm tiếng Hoa và tiếng Hàn. Đối với những sự kiện lịch sử lớn lao đặc biệt là vào thời Mạc Phủ và Minh Trị Duy Tân, họ nghiên cứu, sưu tập tư liệu làm những bộ phim tập trường thiên chiếu trên kênh truyền hình quốc gia NHK để tôn vinh một thời đại, một vương phi hay một nhân vật samurai anh hùng. Vì tính chất hấp dẫn của những bộ phim samurai lịch sử này, phim chưởng Hong Kong hay Trung Quốc với những màn đánh nhau loạn xị, vô cảm nằm ngoài thị hiếu của khán giả và không bao giờ xâm nhập được vào thị trường tivi và điện ảnh Nhật Bản. Ngoài ra, kênh truyền hình giáo dục NHK [4] có những giờ lịch sử được trình bày sống động theo lối “kể chuyện cổ tích” xen vào những khúc phim miêu tả (re-enactment) hay phim tài liệu ngắn rất cuốn hút người xem.
Nagasaki: Dejima
Dejima là một địa danh lịch sử của Nagasaki và của Nhật Bản. Nói đến lịch sử cận đại Nhật Bản thì phải đề cập đến Dejima. Cũng không phải quá lời khi gọi Dejima là cái nôi của khoa học kỹ thuật cận đại Nhật Bản. Trong suốt thời kỳ “tỏa quốc” (bế quan tỏa cảng) của chính quyền Mạc Phủ, nước Nhật tự cấm vận chính mình không giao thương với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Tuy nhiên, chính quyền Mạc Phủ khôn ngoan mở ra một “cửa sổ” nhỏ để nhìn thế giới. Đó là Dejima.
Dejima là một hòn đảo nhân tạo rộng 15.000 m2 được chính quyền Mạc
Phủ xây cất để cho người Hà Lan mướn và lập văn phòng của các công ty
thương thuyền, nhà ở cho nhân viên. Người Hà Lan được phép đi lại vì họ
chỉ buôn bán và không liên hệ đến các hoạt động truyền giáo. Trong những
đoàn thương nhân này, có những vị bác sĩ đến đây để chăm sóc sức khoẻ
của nhân viên và thủy thủ. Những sĩ phu yêu nước không phân biệt giai
cấp từ Edo (Tokyo), Kyoto, Osaka, đã lũ lượt kéo về Nagasaki đến Dejima
tìm gặp các vị bác sĩ này để “tầm sư học đạo”. “Đạo” ở đây là Lan học
(cái học của Hà Lan), có nghĩa là cái học của khoa học kỹ thuật Tây
phương. Năm 1774 bộ sách y khoa về giải phẫu học tiếng Nhật đầu tiên và
cũng là quyển sách khoa học đầu tiên, “Giải thể tân thư”, ra đời dựa
trên theo nguyên bản tiếng Hà Lan. Những môn học khác như thực vật học,
dược học, nông học, vật lý, hóa học, toán học lần lượt được phổ biến. Từ
đó Lan học và phong trào dịch thuật lan rộng cả nước nhanh chóng như
lửa rừng, đồng thời đẩy lùi cái học “ngũ thư, tứ kinh” vào bóng tối.
Thời thế tạo anh hùng. Vào đầu thế kỷ 19, những nhà Lan học lỗi lạc xuất
hiện, lập trường học đào tạo nhân tài, đặt một nền tảng khoa học kỹ
thuật cho cuộc vận động Minh Trị Duy Tân sau này.
Ngày nay Dejima không phải là hòn đảo nữa vì xung quanh người ta đã
lấp đất lấn ra biển. Trên địa điểm cũ những ngôi nhà xưa được phục
nguyên và sinh hoạt của người Hà Lan được tái hiện theo tài liệu lịch
sử. Bộ sách “Giải thể tân thư” và bộ tự điển đầu tiên Nhật – Hán – Anh –
Hà Lan viết bằng tay được trưng bày tại đây cho thấy sự cầu tiến và
kiên nhẫn của các nhà Lan học. Trong phòng triển lãm, tôi chú ý đến cái
đồng hồ quả lắc, ống nhòm thiên văn, cây súng trường, khẩu súng lục chế
tạo vài trăm năm trước mô phỏng theo Hà Lan, Bồ Đào Nha, được cải thiện
cho thích hợp với người Nhật Bản.
Tinh thần phân tích, suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi thấm
sâu trong tư duy người Nhật đã giúp họ phát triển mọi mặt. Vào thế kỷ
thứ 8, người Nhật Bản sang nhà Đường (Trung Quốc) du học, vay mượn Hán
tự làm văn tự của mình và cách tổ chức hành chánh của triều đình nhà
Đường để an bang trị quốc. Họ cải thiện Hán tự và dùng cho đến ngày hôm
nay mà không mang một chút mặc cảm vay mượn. Trái lại, họ đã đóng góp
rất nhiều vào việc phong phú hóa Hán tự và hội nhập văn tự này vào ngôn
ngữ khoa học thế giới. Kể từ khi Lan học xuất hiện, người Nhật đã dùng
tiếng Hán để dịch những từ ngữ y học, khoa học tự nhiên và nhân văn.
Những thuật ngữ như: vật lý, hóa học, số học, vi phân, tích phân, phương
trình, quĩ đạo, lượng tử v.v…, hay trong khoa học nhân văn: kinh tế,
chính trị, dân chủ, xã hội,… là những từ Hán Nhật mà sau này ông thầy
Trung Quốc phải vay mượn lại “học trò” Nhật để bắt kịp thế giới.
Đến tham quan Dejima, tôi thấy thêm một lần nữa tinh thần phân tích,
suy diễn, cải thiện và khiêm tốn học hỏi của người Nhật đã đưa đất nước
này từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu thốn tài nguyên đến địa vị
một đế quốc quân sự và sau này một cường quốc kinh tế và khoa học kỹ
thuật.
Hai ngày tại Nagasaki vẫn chưa đủ, nhưng đã đến lúc phải chia tay.
Trước khi từ giã thành phố cảng lãng mạn này, tôi lững thững ra ngoài
bến cảng nhìn Nagasaki lần cuối. Mây vẫn lướt thướt bay, sóng vẫn vỗ rì
rào và núi vẫn sừng sững vươn lên. Một dãy sơn hà đã chứng kiến biết bao
cảnh thăng trầm, biết bao tao nhân mặc khách, anh hùng hào kiệt đến đến
đi đi. Ánh sáng bình minh của khoa học đã chiếu trên mảnh đất địa linh
nhân kiệt này và những con người Nhật Bản cầu tiến đã sớm thức tỉnh nắm
bắt lấy cơ hội làm ra những trang sử oai hùng cho đất nước.
Buổi chiều hôm đó lành lạnh, có nhiều mây mù và trời lất phất mưa.
Tôi bỗng chợt bâng khuâng muốn đứng giữa bến cảng êm đềm hát to bài tình
ca của một thời du học, “Nagasaki wa kyo mo ame datta” (Nagasaki trời
hôm nay mưa cũng đã rơi)…
Mùa Giáng Sinh 2008
Trương Văn Tân
Đăng lại từ Forum Diễn Đàn (diendan.org)
Bài viết rất hấp dẫn
Trả lờiXóa