Tác giả: Nguyên Hải
Trong Nhật ký người điên, Lỗ Tấn mượn lời người điên để tố
cáo bản chất ăn thịt người của lễ giáo phong kiến: “Mình đã sống bao
nhiêu năm ở một nơi người ta ăn thịt lẫn nhau”… “Sách thánh hiền chép
toàn những điều nhân nghĩa nhưng người đọc chỉ thấy thấp thoáng giữa các
trang sách mấy chữ Ăn Thịt Người!”
Thánh hiền ở đây là Khổng Tử, nhà sáng lập Nho giáo với thành phần
chính là lễ giáo phong kiến. Như vậy giữa Nho giáo với nạn ăn thịt người
có mối quan hệ gì chăng? Bài này thử bàn chuyện ấy. Việc này nên làm,
vì Nho giáo hiện nay vẫn còn tác động tới đời sống mọi mặt ở ta, làm
chậm bước tiến của nền dân chủ, do đó cần phê phán mặt tiêu cực của Nho
giáo.
Về tư tưởng của Khổng Tử
Khổng Tử là bậc chính nhân quân tử, nhà giáo dục vĩ đại, nhưng phương
án xã hội lý tưởng do cụ thiết kế thì có vấn đề. Xã hội ấy xây dựng
trên nền tảng 仁 NHÂN, tức thương người, yêu cầu người
cầm quyền đều là bậc quân tử, luôn tu thân sửa mình, sáng suốt và thương
yêu dân. Vua là Con Trời (Thiên Tử), thay Trời cai quản dân, làm cho họ
sống yên vui. Xã hội được quản lý bằng một quy phạm đạo đức về sau gọi
là Tam cương Ngũ thường – một quy phạm nghiêm ngặt, bền vững, theo nguyên tắc dưới tuyệt đối phục tùng trên.
Tin rằng một xã hội như thế sẽ ổn định, phồn thịnh, Khổng Tử mang bản
thiết kế xã hội này đi chu du khắp nơi, thuyết phục các tiểu quốc chấp
nhận. Nhưng chẳng vua chúa nào nghe theo, bởi lẽ kẻ nắm quyền lực bao
giờ cũng có xu hướng tiến tới sử dụng quyền lực để mưu lợi riêng; nói
cách khác, họ không muốn và không thể làm người quân tử. Ví dụ vua chúa
nào cũng thích sống sung sướng, muốn có hàng chục hàng trăm cung nữ phục
vụ nhu cầu tình dục… Vua quan không muốn làm bậc quân tử song lại muốn
mọi người phải tuyệt đối tuân theo lời mình – đây là nguyên nhân không
thực hiện được Tam cương Ngũ thường .
Tam Cương là ba mối quan hệ xã hội quan trọng nhất: Quân-Thần (vua-bề tôi), Phụ-Tử (cha-con), Phu-Thê (chồng-vợ). “Quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương”, tức vua, cha, chồng phải là cương của bề tôi, của con, của vợ, mặt khác yêu cầu bề tôi, con, vợ phải tuyệt đối phục tùng vua, cha, chồng [cương tức giềng mối, hoặc phần quan trọng nhất, là cương lĩnh, phép tắc; theo cách giải thích hiện nay cương là tấm gương].
Ngũ Thường là “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, tức 5 chuẩn mực hành vi điều chỉnh mối quan hệ vua-tôi, cha-con, anh-em, chồng-vợ, bạn bè.
Tam Cương Ngũ Thường, gọi tắt Cương Thường, là tư tưởng quan
trọng nhất trong văn hóa luân lý Nho giáo Trung Quốc, được tầng lớp
phong kiến sử dụng để giáo hóa dân, qua đó duy trì sự tồn tại của chế độ
phong kiến. Sách vỡ lòng Tam Tự Kinh viết: Tam cương giả, quân thần nghĩa, phụ tử thân, phu phụ thuận, tức
vua tôi phải giữ tình nghĩa với nhau; cha mẹ và con cái phải thương yêu
thân thiết với nhau; vợ chồng phải hòa thuận với nhau. Nhờ thế mọi
người từ nhỏ đã biết phải tuân theo quy tắc đạo đức Tam Cương.
Từ Tam Cương Ngũ Thường xuất hiện đầu tiên trong sách Xuân thu phồn lộ
của triết gia duy tâm Đổng Trọng Thư (179-104 TCN), nhưng bắt nguồn sâu
xa từ Khổng Tử (551-479 TCN) – người đưa ra quan niệm đạo đức “Quân
quân, Thần thần, Phu phu, Tử tử và Nhân, Nghĩa, Lễ”. Về sau Mạnh Tử
(372-289 TCN) bổ sung quy phạm đạo đức Ngũ Luân: “Phụ tử hữu
thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu
hữu tín”, tức cha-con có tình thân, vua-tôi có tình nghĩa, chồng-vợ,
già-trẻ có thứ tự trên dưới, bạn bè có lòng tin nhau.
Cuối cùng Đổng Trọng Thư dựa lý luận Dương tôn Âm ti của mình phát triển các lý thuyết trên thành Tam cương Ngũ thường. Ông pha trộn tư tưởng tông pháp của Nho giáo với thuyết Âm dương ngũ hành, kết hợp thần quyền, phụ quyền, phu quyền xuyên suốt với nhau. Ông sáng lập chủ nghĩa duy tâm thần học Thiên nhân cảm ứng.
Họ Đổng đề xuất vũ trụ quan siêu hình “Đạo chi đại nguyên xuất ư
thiên, thiên bất biến đạo diệc bất biến” tức tất cả mọi quy luật, phép
tắc, đạo lý trên thế gian này đều có nguồn gốc từ Trời; Trời không thay
đổi thì mọi thứ ấy cũng đều không thay đổi. Do đưa được yếu tố Thiên
(Trời) vào nên lý luận của Đổng trở nên có cơ sở vững chắc không ai dám
bác bỏ. Ông cho rằng ba mối quan hệ Quân-Thần, Phụ-Tử, Phu-Thiếp là
quan trọng nhất trong Ngũ Luân, đó là mối quan hệ chủ-tòng có tính chất
trời định, vĩnh hằng bất biến: Quân vi chủ, Thần vi tòng; Phụ vi chủ, Tử vi tòng; Phu vi chủ, Thê vi tòng. Tam Cương xuất phát từ đạo Âm Dương, cho rằng Quân, Phụ, Phu thể hiện mặt “Dương” của vũ trụ, còn Thần, Tử, Thê thể hiện mặt “Âm”. Dương vĩnh viễn ở vào địa vị chúa tể, tôn quý, còn Âm vĩnh viễn ở vào địa vị phục tùng, ti tiện. Bằng cách ấy vị đại Nho họ Đổng xác lập địa vị thống trị của Quân quyền, Phụ quyền, Phu quyền, thần thánh hóa chế độ đẳng cấp và trật tự xã hội phong kiến thành phép tắc cơ bản bất biến của vũ trụ.
Tóm lại, Đổng Trọng Thư đã kết hợp tư tưởng Nho giáo với nhu cầu của
xã hội, hấp thu lý luận của các trường phái học thuật khác, sáng lập một
hệ tư tưởng mới lấy Nho giáo làm hạt nhân, trên cơ sở đó đề xuất “Bãi truất Bách gia, độc tôn Nho thuật”,
và được Hán Vũ Đế chấp nhận. Như vậy Đổng Trọng Thư đã biến Nho giáo
trở thành hệ tư tưởng chính thống suốt hai nghìn năm của xã hội Trung
Quốc, ảnh hưởng sâu sắc tới căn tính của người dân nước này.
Rõ ràng, nếu làm đúng yêu cầu của Khổng Tử – tức dưới tuyệt đối phục
tùng trên nhưng trên phải nêu gương tốt cho dưới, tức phải hành xử như
bậc quân tử – thì chẳng ai phàn nàn gì. Nhưng bọn vua quan cầm quyền bao
giờ cũng muốn được hưởng lợi nhiều nhất, chỉ đơn phương bắt người dân
phục tùng chúng, ai không phục tùng sẽ bị luật pháp trừng trị, nhưng
chẳng có luật pháp nào trừng trị những kẻ nắm quyền không xứng đáng là
bậc quân tử. Hiển nhiên, khi kẻ cầm quyền suy đồi như vậy mà vẫn bắt dân
tuyệt đối phục tùng thì trật tự xã hội của Khổng Tử trở thành gông cùm
xiết cổ người dân, làm cho đạo Khổng có tính chất phản dân chủ.
Vì thế chế độ phong kiến sử dụng đạo Khổng làm cơ sở lý luận bảo vệ
quyền lực của chúng, xã hội Trung Quốc trở thành xã hội độc tài chuyên
chế phản dân chủ.
Rốt cuộc, vì không có cơ chế kiểm tra quyền lực nên xã hội do đức
Khổng thiết kế chỉ là xã hội không tưởng, thậm chí tạo dựng nên một trật
tự xã hội mất nhân tính, lý trí. Chính Mao Trạch Đông cũng nói Học thuyết Khổng Tử danh cao, thực ra là thứ bỏ đi.
Tổng kết lịch sử nhân loại, Lord Acton (1834-1902) rút ra một quy luật muôn thủa: Quyền lực thì có xu hướng suy đồi và quyền lực tuyệt đối thì suy đồi tuyệt đối.
Ai chưa biết quy luật này thì chỉ có thể đưa ra những mô hình xã hội
không có cơ chế ngăn chặn sự suy đồi của tầng lớp cầm quyền, vì thế đều
là không tưởng, cuối cùng bị biến chất thành xã hội chuyên chế.
Hoàn cảnh lịch sử không cho phép Khổng Tử đi xa hơn. Thế kỷ XIX, một
triết gia vĩ đại khác còn thiết kế ra một xã hội lý tưởng hơn nhiều,
nhưng thực thi được 70 năm thì thất bại, vì rốt cuộc kẻ cầm quyền đều
suy đồi, không thực hiện ý tưởng của triết gia ấy.
Giết người thân, ăn thịt người để tỏ lòng trung
Trong Tam Cương, mối quan hệ vua-tôi là quan trọng nhất, yêu
cầu bề tôi tuyệt đối trung thành với vua, vua bảo chết thì phải chết,
kẻ như vậy được ca ngợi là trung thần nghĩa sĩ, cho dù chỉ là ngu trung, tức mù quáng trung thành với một cá nhân hoặc một nhóm người.
Đạo Khổng đề cao “Trung dung”, nói dễ hiểu là “Vừa phải”. Nhưng trên
thực tế người Trung Quốc thời cổ hay hành xử một cách cực đoan. Trung
thành một cách cực đoan tới mức ngu trung là những biểu hiện điển hình
sử sách Trung Quốc có ghi chép.
Bởi thế tuy Khổng Tử toàn nói về luân lý đạo đức dựa trên tư tưởng
thương người, nhưng trong thực tế ở Trung Quốc có những người đã chẳng
thương yêu nhau mà còn … ăn thịt nhau.
Đạo Khổng truyền sang Việt Nam tuy được tầng lớp phong kiến nước ta
tôn sùng nhưng xa lạ với dân ta, không trở thành tín ngưỡng trong lòng
người. Đông đảo dân ta tin đạo Phật, một tôn giáo chủ trương không sát
sinh, đề cao lòng từ bi, tức tình thương mọi sinh linh. Một số vương
triều nước ta theo đạo Phật, nhờ thế xã hội Việt Nam dưới các triều đó
đã phát triển hài hòa.
Tiểu thuyết Tam Quốc Chí, Thủy Hử… kể lại nhiều chuyện ăn thịt người, giọng kể rất bình thản, dường như người xứ này không sợ loại thịt ấy. Thống kê theo sách Nhị thập tứ sử
cho thấy từ đời Tiên Tần đến cuối đời Thanh, Trung Quốc từng xảy ra 403
vụ giết người lấy thịt ăn với quy mô lớn, do chiến tranh hoặc đói kém
gây ra, chủ yếu giết đàn bà và trẻ con – hai hạng người yếu thế không
thể tự bảo vệ mình. Trong nạn đói gây ra bởi phong trào Đại Nhảy Vọt
1958-1960, dân đói cũng ăn thịt trẻ con – tiểu thuyết “Ký sự ở Trại trẻ
mồ côi Định Tây” của nhà văn Dương Hiển Huệ có kể chuyện ấy (bản dịch
tiếng Việt mới xuất bản).
Vì đói mà ăn thịt xác chết đồng loại đã là quá kinh khủng, không bằng
thú vật. Nhưng đáng lên án nhất là những kẻ vì để tỏ lòng trung với chủ
mà giết tươi vợ con mình, dã man không tưởng tượng nổi. Tiếc thay điều
này có liên quan tới đạo Khổng.
Trong Loạn An Sử, tướng nhà Đường là Trương Tuần trấn giữ
thành Tuy Dương bị vây hãm, khi cạn lương thực, Trương bèn giết ngay vợ
mình lấy thịt đãi quân sĩ. Chuyện này được sử sách Tàu ca ngợi là “Thiên
cổ mỹ đàm”, nói lên sự xả thân hy sinh của “trung thần nghĩa sĩ” Trương
Tuần. Tại nơi ấy nay còn đền thờ và mộ Trương Tuần, cổng đền viết “Công
chiêu nhật nguyệt”, “Trung liệt thiên thu”. Bia mộ khắc dòng chữ “Đường
trung liệt hầu Trương Tuần chi mộ”. Thập niên 80 thế kỷ XX, Trung Quốc
còn xuất bản tập truyện tranh ca ngợi “nghĩa cử” này của Trương, gần đây
báo có đăng lại mấy bức tranh ấy! Thiên hạ quên mất một chuyện là sau
khi chủ tướng Trương Tuần “nêu gương” giết vợ, quân sĩ dưới trướng rủ
nhau mặc sức giết đàn bà trẻ con trong thành lấy thịt ăn. Dã man đến thế
ư, ngoài Trung Quốc ra có nơi nào như vậy không ?
Tam quốc Diễn nghĩa hồi 19 chép chuyện vì muốn dâng món ăn
“lạ miệng” lên hoàng thân nhà Hán là Huyền Đức Lưu Bị mà thợ săn Lưu An
giết vợ mình lấy thịt đãi Bị (và Tôn Càn). Sau đấy, khi thấy dưới nhà
bếp có xác đàn bà bị róc hết thịt bắp tay, Lưu Bị biết sự thật, ứa nước
mắt nhưng đã không mắng Lưu An mà còn an ủi “Anh em như chân tay, đàn bà
như quần áo” (giết đi cũng chẳng sao). Khi gặp Tào Tháo, Bị kể lại
chuyện ấy, Tháo cảm phục lòng trung của Lưu An, sai đem 200 lạng vàng
thưởng An. Đến đời nhà Thanh, sân khấu Tàu còn diễn kịch ca ngợi “tấm
gương” Lưu An! Rõ ràng An là kẻ vô cùng ích kỷ. Vì sao hắn không nhờ
người khác giết hắn lấy thịt khoản đãi Lưu Bị mà lại giết vợ?
Thời Xuân thu Chiến quốc, một hôm Tề Hoàn Công đùa bảo Dịch Nha, một
đầu bếp-gian thần trong cung: “Ta ăn đủ thứ sơn hào hải vị rồi, chỉ thịt
người là chưa. Ngươi nấu ăn giỏi, có biết chế món thịt người không?”
Dịch Nha tưởng thật, về nhà giết đứa con trai ba tuổi của mình dâng vua
ăn để lấy lòng vua. Tề Hoàn công biết chuyện càng sủng ái Dịch Nha.
Sát hại đàn bà trẻ con, là tội ác vô cùng man rợ, lẽ ra phải lên án.
Ngày nay ngay tội ấu dâm cũng bị luật pháp Mỹ xử rất nặng. Thế mà kỳ
quặc thay, người Trung Quốc chẳng những không lên án Lưu An, Trương
Tuần,.. mà sử sách họ lại còn ca ngợi những kẻ sát nhân ấy là “trung
thần nghĩa sĩ”. Đó là do ảnh hưởng của đạo Khổng, văn hóa truyền thống
Trung Hoa coi trung thành với người lãnh đạo (Quân) là phẩm chất đáng quý nhất của kẻ bị lãnh đạo (Thần), không cần biết Quân sáng suốt hay ngu dốt. Tam Cương Ngũ Thường tạo nên truyền thống ngu trung
làm cho suốt mấy nghìn năm nước này không có khái niệm dân chủ tự do
bình đẳng, vì thế khó có thể sáng tạo cái mới. Văn minh cổ Trung Hoa tỏa
sáng một thời nhưng sau khi bị đạo Khổng thống trị thì dần dần tụt xa
sau phương Tây, chẳng còn cống hiến đáng kể nào cho nhân loại về khoa
học xã hội-nhân văn hoặc khoa học công nghệ. Khi tiếp xúc với văn hóa
phương Tây, giới tinh hoa Trung Quốc đã lên án thậm tệ đạo Khổng và đòi
từ bỏ nền văn hóa truyền thống. Dĩ nhiên, chẳng tốt đẹp gì khi phủ nhận
di sản văn hóa tổ tiên để lại, nhưng khi đó là thứ tài sản chứa đựng
những giá trị làm mọi người nghĩ đến chỉ thấy xấu hổ thì lẽ tự nhiên
chẳng ai muốn thừa kế.
Ngày nay dưới chiêu bài “phục hồi văn hóa truyền thống Trung Hoa”,
Trung Quốc đang cố phục hồi đạo Khổng, chủ yếu là truyền thống tôn ti
trật tự Quân-Thần. Có điều Quân hiện nay được hiểu là
Đảng – nhóm 80 triệu người trong số 1400 triệu dân (5,7%). Ông Tập Cận
Bình đi khắp nước kêu gọi mọi người mọi ngành tuyệt đối phục tùng Đảng
Cộng sản do ông đứng đầu. Để củng cố địa vị cá nhân, ông Tập đang tìm
cách bóp nghẹt nguyện vọng dân chủ của dân. Cách làm ấy gây ra sự lo
lắng trong Đảng. Cách đây ít lâu chính Ban Kiểm tra kỷ luật TƯ ĐCSTQ đã
đăng một bài báo nhắc ông Tập nên lắng nghe những lời can gián ngay
thẳng. Cho dù các phương tiện bày tỏ nguyện vọng cá nhân đã bị cấm, dân
bị khóa miệng, nhưng vẫn có người công khai kêu gọi Tập Cận Bình từ
chức. Dân mạng Trung Quốc nói trong thời đại thông tin ngày nay không ai
có thể thực thi được chính sách ngu dân.
Báo chí phương Tây cảnh báo: việc phục hồi Khổng Tử có thể là “gậy
ông đập lưng ông” và mách nước ông Tập nên áp dụng cơ chế nhà nước
phương Tây. Cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, các nhà tư tưởng Anh và
Pháp từng đề xuất mô hình nhà nước phân quyền, sau phát triển thành cơ
chế tam quyền phân lập, có thể kiểm soát, kiềm chế được quyền
lực, nhờ thế xã hội ổn định lâu dài. Cơ chế này không cho phép cá nhân
hoặc một nhóm lợi ích nào nắm quyền mãi mãi, tức không thể chuyên chế
độc tài. Nhờ áp dụng cơ chế này, nước Mỹ từ ngày lập quốc (1776) tới nay
chưa hề xảy ra đảo chính lật đổ nhà cầm quyền, các chính phủ nối tiếp
nhau quản lý xã hội, đất nước yên bình ổn định và phát triển nhanh, đời
sống nhân dân được nâng cao
Ảnh: WIKIPEDIA
Bức chân dung cổ nhất về Khổng tử do họa sư Ngô Đạo Tử vẽ.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)
Tạp Ghi và Phiếm Luận : Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ Ăn x ổi ở th ì,...
-
CON MỂN VÀ ĐIỀM BÁO KHÔNG MAY MẮN Con thú rừng có tên “ Mển ” hay“ Mang” , còn gọi là hoẵng , kỉ , là mộ...
-
Năm nào cũng vậy, do thức dậy sớm đi chợ sớm, nên má là người đầu tiên mở ngày ba mươi Tết ra. Không biết có phải số má cực, vía má cực kh...
-
Bối cảnh lịch sử: Nguyễn Du (chữ Hán: 阮攸; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766–1820), tên tự Tố Như (素如), hiệu Thanh Hiên (清軒), biệt hiệu Hồ...
Bài viết rất hay
Trả lờiXóa