Khi bước ra khỏi cổng hải quan kiểm tra hành lý của phi
trường Narita đi đến nhà ga xe lửa vào thành phố Tokyo thì tôi đã thấy
một hàng dài khách nước ngoài làm thủ tục nhận vé sức mạnh mềm hấp dẫn khách thập phương.
Bờ Tây Nhật Bản vốn là một vùng nông nghiệp chậm phát triển,
nhưng giờ đây được chính phủ “khai hoang” tạo điều kiện đưa khách vào
vùng này mà trung tâm chính là thành phố Kanazawa cổ kính. Từ chính
sách “Phú
quốc cường binh” của chế độ quân phiệt Nhật trong Thế chiến thứ hai đến khẩu hiệu “Kỹ
thuật lập quốc” vào thập niên 70 của thế kỷ trước dùng khoa học kỹ
thuật để tái dựng đất nước sau chiến tranh, nước Nhật đã đi một bước
dài củng cố hòa bình. Ngày nay, người Nhật dùng cái vốn văn hóa, truyền
thống và thiên nhiên tạo nên phong trào “Du
lịch lập quốc”để làm giàu ngân khố quốc gia.
Số lượng người nước ngoài gia tăng không chỉ là khách du lịch
mà còn là dân nhập cư lao động, phần lớn từ các nước Đông Nam Á trong đó có vài
trăm ngàn người Việt. Dân số Nhật đang tụt giảm, người già gia
tăng, người trẻ Nhật bỏ quê lên thành phố làm việc. Những yếu tố này làm
giảm số lượng người lao động và lực lượng sản xuất cần thiết cho mọi
dịch vụ nhất là ở vùng quê. Tôi
gặp người Nepal hầu như khắp nơi trong khách sạn và các cửa hiệu bán
lẻ. Người Việt hiện diện từ Bắc chí Nam, từ thành thị đến thôn quê nước Nhật. Việc nhận ra người đồng hương giữa những khuôn mặt châu Á tưởng như bất khả thi nhưng thật ra không khó.
Dáng đi người Việt khác người Nhật và cũng khác người Trung Quốc. Âm tiếng Việt
ồn ào có thể nghe rõ từ xa trong đám đông người Nhật im lìm. Số
lượng đông đảo người Việt không tránh khỏi gây ra một số tiêu cực. Tình
trạng ăn cắp vặt có hệ thống, bắt trộm vịt hoang về nấu cháo, chém giết
nhau trong cộng đồng người Việt tại Nhật được
loan truyền trên các phương tiện truyền thông Nhật tạo ra nhiều phản
cảm trong quần chúng. Một thiểu số làm rầu nồi canh. Phần lớn người Việt
tại Nhật làm ăn lương thiện. Những du học sinh chăm chỉ học hành và làm
việc bán thời gian khắp nơi. Có nhiều người ở lại
định cư nhận nơi đây làm quê hương thứ hai
***
Tôi trở lại thị xã Fukuroi,
nơi mà tôi có một liên hệ sâu
đậm hơn 40 năm qua do một ngẫu nhiên thiên định. Thị xã là điểm trung
tâm nằm trên quốc lộ Đông Hải Đạo (Tokaido) nối hai thành phố Tokyo và
Osaka từ thời Mạc Phủ (thế kỷ 17). Ngoài ra, thị xã nhỏ này không có gì
nổi bật. Nhưng có một điều rất đặc biệt là
địa danh Fukuroi có nhiều liên quan đến lịch sử cận đại Việt Nam. Đáng
tiếc là rất ít người biết đến điều này kể cả sử gia chuyên nghiệp.
Trong thời kỳ Đông Du, cụ Phan Bội Châu đã từng đặt chân đến nơi
này. Cụ Phan sang Nhật phát động phong trào Đông Du, nửa chừng cụ
hết tiền trở nên túng quẫn giữa quê người. Bác sĩ Asaba Sakitaro ở thị
xã này biết cụ vì quốc nạn mà phải bôn ba hải ngoại qua một sinh viên
người Việt trong phong trào Đông Du. Nghe câu
chuyện kể từ người sinh viên, Bác sĩ Asaba cảm kích trao tặng cụ một số tiền
lớn vô điều kiện (tương đương 300,000 USD ngày nay)
mặc dù chưa từng gặp mặt và không hề quen biết. Bác sĩ Asaba còn viết cho cụ Phan một lá thư gởi kèm mà không một chút khách khí tự cao, “Nhặt
nhạnh trong nhà, chỉ còn có thế, sau này nếu cần nữa, cứ viết thư đến,
sẽ có tiền gửi lại ngay” [1]. Thật là cảm động cho một nghĩa cử cao đẹp có một không hai của một bậc trí thức hào sảng trong truyền thống kẻ sĩ samurai.
Sau đó, dưới áp lực của Pháp cụ Phan bị trục xuất ra khỏi nước Nhật. Chín
năm sau, cụ Phan trở lại Nhật đến Fukuroi gặp ân nhân nói lời cảm tạ
nhưng tiếc thay Bác sĩ Asaba đã qua đời. Để tri ân, cụ Phan ngỏ ý lập
tấm bia cảm tạ (năm 1918). Dân làng cảm khái nghĩa khí của cụ cùng nhau hiệp lực giúp cụ hoàn thành tâm nguyện của
mình. Cụ Phan ở lại thị xã này gần một tháng cho đến khi tấm bia hoàn tất. Bia
được dựng lên trong khuôn viên chùa Thường Lâm Tự (Jorin-ji) mà cạnh đó là mộ của Bác sĩ và dòng họ Asaba.
Tấm bia viết bằng chữ Hán với lời lẽ bùi ngùi thống thiết: “Chúng
tôi vì quốc nạn, lánh chạy sang xứ Phù Tang, ông cảm thương cho chí
hướng chúng tôi, giúp chúng tôi lúc khốn cùng… Than ôi! Nay ông không
còn, trông khắp bốn bể, biển trời mênh mang hiu quạnh, lòng này biết tỏ
cùng ai. …. Xưa nay không ai hào kiệt bằng ông,
nghĩa ông bao trùm trong ngoài. Ông giúp như trời, tôi chịu như biển.
Chí tôi chưa thành, ông không chờ đợi. Lòng đau vời vợi, đến ức vạn năm.
Việt Nam Quang Phục Hội đồng nhân cẩn chí”.
Câu chuyện cụ Phan và Bác Sĩ Asaba được kể lại chi tiết trong một quyển sách của cố giáo sư Vĩnh Sính [1].
Tấm
bia cụ Phan, phía sau là nghĩa trang có mộ nhà Asabatrong khuôn viên Thường Lâm Tự. (Ảnh TVT)
Gần như mỗi lần trở về Fukuroi, tôi tìm thời gian ghé
thăm tấm bia cụ Phan cùng lúc đứng trước mộ Bác sĩ Asaba cúi đầu cảm tạ.
Trong một thời gian dài, tấm bia bị chìm trong quên lãng. Trước 75,
chính quyền VNCH không quan tâm nhiều đến di tích
lịch sử. Sau 75, chính quyền Cộng Sản dân không mặn mà đến những gì bên
ngoài lịch sử Đảng. Chỉ có 10 năm gần đây, tấm bia bỗng nhiên có ý
nghĩa lịch sử quan trọng trong bối cảnh nồng ấm của liên hệ ngoại giao
Việt Nhật. Thế sự dù thăng trầm nhưng lòng hào
hiệp của người Nhật vẫn không thay đổi. Trước khi thoái vị và nhân 100 năm (2018)
ngày thành lập bia cụ Phan, Thiên Hoàng Akihito và Hoàng Hậu đã đến viếng thăm tấm bia và đọc từng dòng chữ khắc trên bia. Cũng
nhân dịp này, chính quyền thị xã dựng một tấm bia trước nhà ga Fukuroi
với dòng chữ Nhật Việt ghi nhớ công lao và sự liên hệ
mật thiết với thị xã của cụ Phan.
Ngày nay, vì ảnh hưởng của dân số tụt giảm và người trẻ
đi lên thành phố cũng như những thị trấn khác ở miền quê, Fukuroi trở
nên hoang vắng. Con đường chính trước nhà ga không còn nhộn nhịp như vài
mươi năm trước. Nhưng trong
thị xã nhỏ bé này gần đây xuất hiện một quán bún chả Hà Nội. Cô
chủ từng là một du học sinh mở quán để giới thiệu hương vị Việt Nam đến
người của thị xã và những người Việt xa quê hương. Cô cũng cho biết hiện
đang có 400 người Việt sống và làm việc tại đây. Những người gốc
Nghệ An cùng quê với cụ Phan có ý định thành lập Hội người Việt Nghệ An
tại Fukuroi để cùng giao lưu văn hóa với thị xã và tưởng nhớ sự hào hiệp
của Bác sĩ Asaba Sakitaro cũng như lòng yêu
nước của cụ Phan Bội Châu.
***
Trong suốt thời gian tại Nhật, hầu như mỗi đêm tôi theo
thói quen
của thời sinh viên mở tivi tìm kiếm những chương trình ca nhạc êm dịu.
Tiếc thay, người Nhật hiện đại không còn lãng mạn như những thập niên 60
– 80 của thế kỷ trước. Thay vào đó là những chương trình ăn uống,
nấu ăn xuất hiện từ sáng đến tối, kênh này
qua kênh khác. Năm xưa, chương trình ca nhạc được trình diễn hằng đêm
trên màn hình nhỏ với những bài tình ca được diễn tả bằng những giọng ca
truyền cảm. Trên đường phố, trong quán ăn đâu đâu cũng nghe thoang
thoảng những bài ca hit.
Tình ca Nhật cũng có những nụ hôn nồng nàn, vòng tay dịu dàng, ánh mắt
đắm đuối và nhiều lắm những giọt nước mắt chia ly. Nhưng không phải là
những cuộc chia ly rã rời tan nát, “Mai
đây khi hoa tàn úa xanh xao phong ba dập vùi. Em xin nằm xuống mang theo con tim ngậm ngùi” [2],
trong khung cảnh cô tịch hoang liêu như trong nhiều bài tình ca Việt.
Những cuộc tình Nhật Bản bịn rịn chia tay ở một nơi thực tế hơn như trên
sân ga vắng
người, sân bay mưa tầm tã, trong chuyến tàu điện cuối cùng. Mỗi bài hát
thường là một câu chuyện kể về một chuyện tình mà phần lớn người con
gái là kẻ nức nở tâm sự. Và có lẽ để cho bài hát lâm ly bi đát hơn,
người con gái lúc nào cũng là người bị bỏ đi, cam
chịu làm thân phận của kẻ thiệt thòi. Đã chia tay với anh rồi nhưng “Đôi khi
đi giữa chợ đời. Thấy ai có nét giống người hao hao. Lại nhớ anh với nỗi đau. Cớ sao chẳng thấy nơi nào tình yêu?” [3], và cuối cùng người con gái nén lòng không đặng rưng rưng thỏ thẻ, “Trở
trời Thu đến buồn thiu. Lâu lâu thư gửi ít điều hỏi thăm. Nếu có vài chữ bị lem. Xin anh hãy hiểu lệ kèm theo đây” [3]. Cũng có bài hát khơi gợi lại một mối tình nhỏ học trò, những hoài niệm sâu lắng của tuổi ngọc ngây thơ, “Em
còn nhớ hay em đã quên. Chiếc đu màu trắng đung đưa. Theo cơn gió nhẹ công viên ngày nào” hay “Bầu
trời xanh ơi, hãy nói cho tôi. Người con gái nhỏ bây giờ phương nao…” hay
những mối tình nghèo kiểu “một mái nhà tranh hai quả tim vàng” trong
phòng trọ chật hẹp nhưng đầy tình cảm quyến luyến của người con gái, “Trên
gác nhỏ trong căn phòng ba chiếu [4]. Bên song cửa dưới gầm cầu lặng lẽ.
Sông Kanda vẫn xuôi ngược giòng đời” [5]…
Giới văn nghệ Nhật Bản ngày nay hầu như không sản sinh được một
người ca sĩ đại chúng (pop singer) tầm cỡ, hay những bài ca trữ
tình đã từng làm rung động những con tim dù còn xanh hay đã lắm phôi
pha. Có phải vì những bài ca hiện đại lai căng nhí nhố lời Anh, lời Nhật
xen nhau, ca từ lắp ráp tùy tiện, ý tứ hỗn độn,
âm điệu lung tung không thấm vào tâm thức của người nghe. Hay là, người
trẻ Nhật bây giờ đã biết hưởng thụ nhiều hơn, thực tế hơn trong cuộc
sống. Ngoài men rượu sake khề khà họ còn nhiều lắm thú vui dung tục nên
không cần đến những tiếng hát trữ tình giải
khuây như những ngày tháng căng thẳng của nền kinh tế phát triển cao độ
ở thập niên 70. Họ lãnh đạm trước tình yêu, chỉ cần ăn uống thỏa thuê
hơn là lắp đầy tâm hồn bằng sự lãng mạn. Bận bịu làm chi với những thứ
“lãng mạn” gái trai…! Những giọng ca nổi tiếng
một thời bây giờ cũng đã vượt “cổ lai hi”, nhưng khi có một vài chương
trình ca nhạc hiếm hoi nào thì nhất định những ca sĩ này sẽ trở lại sân
khấu mang lại một thoáng hương xưa trong nhiều nỗi hoài niệm mênh mang.
***
Kiến trúc cổ đại của Nhật Bản mang một sắc thái riêng khác với
kiến trúc Trung Hoa. Những ngôi chùa, thần xã (đình thần) mang một phong cách đặc thù Nhật. Nhưng kiến
trúc hùng vĩ nhất phải nói đến thành quách Nhật Bản. Vào thế kỷ 15 khi Nhật Bản rơi vào tình trạng sứ quân mà
sử Nhật gọi là thời đại Chiến Quốc (Sengoku Jidai). Nhu cầu làm thành
như một pháo đài quân sự trở nên bức thiết cho việc phòng vệ cũng như
hành
chánh cho mỗi sứ quân. Sứ quân nghèo yếu làm thành nhỏ, sứ quân giàu
mạnh làm thành lớn.
Theo dòng thời gian những thành quách bị chiến tranh và
thiên tai tàn phá. Có nơi chỉ là phế tích trơ trọi nền đất, có nơi được
phục nguyên vì tầm quan trọng lịch sử. Trong hàng trăm ngôi thành lớn
nhỏ, ngày
nay chỉ còn lại năm thành không bị tàn phá và giữ được cấu trúc nguyên sơ. Thành
Matsumoto, thuộc tỉnh Nagano ngày nay, là một trong năm thành đó vẫn trơ gan dày dặn với gió sương.
Tôi đến viếng thành Matsumoto trong một buổi chiều mùa thu yên tĩnh. Thành Nhật Bản có một điểm chung là xây
trên một nền đá kiên cố, xung quanh là được bao bọc bởi hồ nước được sử
dụng như chiến hào. Thành được xây từ 3 đến 6 hay 7 tầng và tầng
trên cùng là nơi chủ tướng và các võ tướng tập hợp để chỉ huy các trận
đánh. Thành Matsumoto được xây giữa thế kỷ
16. Cấu trúc bên trong của thành là gỗ. Những cây đà vuông góc to nhỏ
khác nhau, cây đà to nhất có tiết diện khoảng 50×50 cm, đặt chồng chéo
lên nhau tạo nên khung thành thật vững chắc. Thành
được xây để chống những cuộc tấn công bằng súng và pháo. Vì vậy,
chất liệu làm nên tường là một thể loại composite làm từ bùn đất, vôi và
những sợi giây bố gia cường. Tường có độ dày 30 cm. Tôi thử gõ nhẹ vào
tường và có cảm giác tường có độ cứng như
xi măng hiện đại. Dù cho mục đích quân sự, nhưng khác với Vạn lý Trường
thành của Trung Quốc ngoài sự kiên cố thành được xây với thiết kế đẹp
mắt uy nghi với những linh vật trên mái ngói như cá hóa long với hoa văn
được khắc tỉ mỉ để khoe sự giàu có và hùng
mạnh đối với các thế lực thù địch xung quanh.
Trong thành Matsumoto, người ta trưng bày những cây súng trường,
súng lục, những viên đạn chì to nhỏ khác nhau mà theo lời thuyết minh nơi trưng bày là hoàn toàn tự chế “made in Japan” 100%.
Như vậy, vào giữa thế kỷ 16 cùng thời với nhà Mạc và Lê Trung hưng ở
Việt Nam, trong khi ở Việt Nam còn dùng cung kiếm, giáo
mác thì tại Nhật các “kỹ sư cơ khí” Nhật đã phát minh súng ống cùng lúc
với các thế lực phương Tây.
Tôi bước ra khỏi thành Matsumoto để kịp chụp vài bức ảnh
trong nắng chiều hoàng hôn thì gặp một ông cụ lom khom cầm chiếc máy ảnh
to đùng nhưng rất hiện đại loay hoay chụp ảnh. Tôi hỏi ông cụ từ đâu
đến. Ông bảo tận Nagoya. Nagoya là thành phố
lớn thứ ba tại Nhật sau Tokyo và Osaka. Tôi bảo ông, “Thành phố Nagoya đã có
thành Nagoya uy nghi đẹp đẽ, sao ông phải nhọc công đến đây làm gì?”. Ông cụ cười hiền hòa từ tốn nói, “Thành
Nagoya cũng như thành Osaka chỉ là thành phục nguyên làm lại từ bê tông
cốt sắt, không còn giá trị lịch sử nữa. Chỉ để nhìn cho vui thôi”. Ông vừa chỉ thành Matsumoto vừa nghiêm nghị bảo tôi, “Chỉ
có thành này và bốn thành khác mới còn tồn tại cấu trúc nguyên thủy mà thôi”, rồi ông kể một loạt tên của bốn thành còn lại mà bây giờ tôi cũng quên mất…
Thành Osaka là một trong những thành quan trọng bậc nhất trong
lịch sử Nhật Bản. Thành được xây vào năm 1583 bởi Toyotomi
Hideyoshi, một chiến tướng tài ba, đã tiếp tục sự nghiệp chủ tướng của
ông là Oda Nobunaga, chấm dứt thời kỳ Chiến Quốc, thống nhất Nhật Bản.
Khác với thành Matsumoto, trong quá khứ thành Osaka
nhiều lần từng bị tàn phá vì thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh. Thành
Osaka đã được phục nguyên với cái vỏ ngoài rực rỡ vào năm 1997 bằng bê
tông cốt sắt cộng thêm cả chiếc thang máy đưa du khách lên xuống tham
quan. Bên
trong thành tràn ngập du khách, giờ đây là một viện bảo tàng trưng bày
những hiện vật và tài liệu lịch sử liên quan đến thời đại cầm quyền của
Hideyoshi. Hideyoshi là một nhân vật đặc biệt trong lịch sử Nhật Bản mà tôi cảm thấy cần tìm hiểu và tóm tắt
cuộc đời ngang dọc của vị lãnh chúa này.
Sau khi bình định tất cả sứ quân, việc thống nhất Nhật
Bản chấm dứt thời đại Chiến Quốc của Hideyoshi đã đưa ông vào lịch sử
Nhật Bản như một anh hùng dân tộc. Theo những tài liệu được trưng bày,
Hideyoshi xuất thân từ một gia đình nhà nông nghèo
khó. Nhưng bù lại, ông có một người vợ tên là One xuất thân giai cấp
quý tộc samurai suốt đời tận tụy vì ông và làm cố vấn chính trị cho ông.
Sau lưng sự thành công của người đàn ông luôn có bóng dáng của người
đàn bà. Ông đầu quân theo lãnh chúa Oda Nobunaga,
dần dần thành cận vệ thân tín của Nobunaga gồm cả chức vụ “giữ dép” cho
chủ tướng. Hideyoshi chăm lo Nobunaga hết mực. Mùa đông, ông ôm dép
Nobunaga vào ngực của mình truyền hơi nóng rồi mới trao cho vị chủ tướng
giữ ấm đôi chân. Khi Nobunaga qua đời, ông
lên cầm quyền tiếp tục con đường thống nhất đất nước.
Sau khi thống nhất, Hideyoshi thực hiện chủ nghĩa bành
trướng. Ông có thái độ rất ngạo mạn với các nước xung quanh. Ông nghi
ngờ những người truyền giáo Tây Ban Nha là những người thực dân trá hình
nên ông cấm đạo Ki-tô, bắt và giết những người
theo Ki-tô giáo. Ông nhìn về phía tây thấy Triều Tiên và Minh Quốc (nhà
Minh, Trung Quốc). Từ những thông tin của những thương thuyền giao dịch
với Đông Nam Á, ở phía nam ông biết sự tồn tại của đảo Luzon
(Philippines), thuộc địa Tây Ban Nha. Năm 1587, khi
còn đang trên đường chinh phạt thống nhất đất nước ông yêu cầu vua
Triều Tiên đến gặp ông. Năm 1591, ông gởi thư đến đảo Luzon yêu cầu Toàn
quyền người Tây Ban Nha và cả vua Tây Ban Nha đến Nhật. Không ai đến
gặp ông, ông giận dữ và hăm dọa cất quân chinh
phạt. Vương quốc Lưu Cầu (Okinawa ngày nay) và Đài Loan cũng nằm trong
tầm nhìn của ông. Chiến lược của Hideyoshi là chiếm hai đảo này và dùng
chúng như bàn đạp Nam tiến chiếm Luzon. Nhưng miếng mồi to lớn của
Hideyoshi là Minh Quốc. Ông muốn thực hiện giấc
mơ của chủ tướng Oda Nobunaga xâm chiếm Minh Quốc qua ngả Triều Tiên. Ông yêu
cầu vua Triều Tiên mở đường cho ông chinh phạt Minh Quốc. Vua
Triều Tiên phớt lờ. Ông tức giận phát động cuộc chiến xâm lược Triều
Tiên vào năm 1592 nhằm năm Nhâm Thìn nên người Triều Tiên gọi là chiến
tranh Imjin (Nhâm Thìn). Trong cuộc chinh phạt này,
Hideyoshi dùng 16 vạn bộ binh và hơn 9000 thủy quân và sử dụng 1700
chiến thuyền đổ bộ tại Busan, phía Nam Triều Tiên. Đoàn binh tinh nhuệ
của Hideyoshi thế như chẻ tre tiến lên phía Bắc hướng về kinh đô Hán
Thành (Seoul ngày nay). Trung bình đoàn binh di
chuyển 100 km trong một tuần. Trong vòng 3 tuần, các tướng lãnh của
Hideyoshi chiếm được Hán Thành và sau đó Bình Nhưỡng. Vua Triều Tiên bỏ
chạy và đoàn quân xăm lăng của Hideyoshi bắt sống được một vị hoàng tử
Triều Tiên. Một nhánh quân khác thần tốc tiến
về hướng Đông Bắc gần nơi mà ngày nay là biên giới giữa Triều Tiên,
Trung Quốc và Nga. Minh Quốc chấn động. Từ Busan đến vùng biên cương này
gần 1500 km.
Được tin đại thắng tại Triều Tiên, Hideyoshi mừng lớn,
giấc mơ chiếm đóng Minh Quốc gần như trong tầm tay. Ông mơ đến ngày di
dời Thiên Hoàng đến Bắc Kinh rồi biến nơi này thành thủ đô của Đế quốc
Nhật Bản. Ông lên kế hoạch cùng phu nhân One
định cư tại Ninh Ba (một thành phố cảng thuộc tỉnh Chiết Giang ngày
nay) và từ nơi này ông kỳ vọng những tướng lãnh của ông sẽ tiến chiếm
nước Thiên Trúc (Ấn Độ) sau khi bình định Minh Quốc. Những diễn biến này
cho thấy Hideyoshi cực kỳ tham vọng có cái hoang
tưởng ngạo mạn “điếc không sợ súng” của một tên võ biền nhưng cũng có
sự tính toán thao lược của một vị đại tướng.
Tuy nhiên, niềm vui của Hideyoshi đến hơi sớm. Đáp ứng
lời yêu cầu của vua Triều Tiên, viện binh Minh Quốc đến kịp thời cùng
với du kích quân Triều Tiên ngăn chặn mũi dùi tiến công của đoàn quân
xâm lược. Nhưng bức trường thành phòng vệ dũng
cảm vô hiệu hóa những cuộc càn quét trên biển của tướng lãnh Hideyoshi
là các chiến thuyền Triều Tiên do Đề
đốc Triều Tiên Yi Sun-sin (Lý Thuấn Thần) chỉ huy mà tư liệu Nhật
trong viện bảo tàng thành Osaka không thấy đề cập tới. Những trận đánh
bách chiến bách thắng của vị đề
đốc thiên tài đã tiêu diệt hàng trăm chiến thuyền Nhật với tổn thất rất nhỏ cho Triều Tiên.
Những trận hải chiến này cắt đứt đường tiếp vận lương thực chiến lược
của vùng biển Tây Nam cho lực lượng chiếm đóng ở Hán Thành và Bình
Nhưỡng. Yi Sun-sin không
những là một đề đốc thao lược mà còn là một kiến trúc sư hàng hải
(naval architect) tài ba. Ông thiết kế chiến thuyền dài 36 m mà nóc tàu
được làm bằng thép giống như mai rùa với gai nhọn nên gọi là “tàu rùa”
để chống pháo và chống nhảy tàu từ phe địch. Có
thể nói “tàu rùa” là thuyền có cấu trúc thép đầu tiên trên thế giới.
Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, Hideyoshi lúc hăm
dọa, lúc mềm mỏng; một mặt kết tập lực lượng, cho đóng quân từ Hán Thành
trở xuống đến Busan, một mặt ở mời sứ giả Minh Quốc đến Nhật giảng hòa
trong tâm thế của một kẻ chiến thắng. Hideyoshi
mở ra mặt trận ngoại giao, vừa hòa hoãn trao trả vị hoàng tử bị bắt cho
Triều Tiên vừa đưa ra 7 yêu sách trong đó yêu cầu vua Minh gả công chúa
cho Thiên Hoàng làm hậu phi, cắt đôi Triều Tiên mà phía Nam sẽ là thuộc
địa Nhật, mang hoàng tử Triều Tiên sang
Nhật làm con tin. Mặt khác, Hideyoshi muốn dứt bỏ “cái gai” Yi Sun-sin,
đặt nội gián trong triều đình vua Triều Tiên để dèm pha Đề đốc Yi khiến
Yi bị bỏ tù. Phải nói Hideyoshi là người đa mưu túc trí. Nhưng liên
minh Minh – Triều cũng mưu mô không kém. Liên
minh Minh – Triều “câu giờ” trong một thời gian dài, ỡm ờ không đáp ứng
các yêu sách của Hideyoshi. Thay vì nhận được yêu sách của Hideyoshi,
vua Minh lại được trao cho một lá thư giả với nội dung Hideyoshi tỏ ý
thần phục nhà Minh. Vua
Minh vui vẻ tấn phong Hideyoshi cái chức “Nhật Bản Quốc Vương” hữu danh vô thực, đồng
thời đòi hỏi Hideyoshi rút quân ra khỏi Triều Tiên. Hideyoshi nổi cơn
thịnh nộ vì yêu cầu không được đáp ứng mà phía nhà Minh lại đưa ra những
thứ vớ vẩn.
Năm 1597, Hideyoshi xé toạc 7 yêu sách rồi cử 10 vạn đại
quân, 1000 chiến thuyền cộng với 5 vạn quân đang chiếm đóng chinh phạt
Triều Tiên lần thứ hai. Bấy giờ, Đề đốc Yi đã bị bỏ tù không còn trong
triều đình. Cái gai đã bị rút bỏ. Không có
sự hiện diện của Đề đốc Yi, thủy quân Triều Tiên ở phòng tuyến phía Nam
dễ dàng bị tiêu diệt. Trong lần xâm lược lần thứ hai, bộ binh Hideyoshi
tiến chậm hơn lần trước vì quân Triều Tiên có tổ chức hơn, phản công
quyết liệt và có đại quân Minh Quốc hỗ trợ
phía sau. Nhưng sau trận đại bại của thủy quân Triều Tiên, vua Triều Tiên vội
vàng phóng thích Đề đốc Yi. Người đề đốc thiên tài này trở lại
chiến trường như rồng thiêng trở lại biển cả. Đề đốc Yi nhanh chóng tái
tổ chức lực lượng thủy quân phía Nam, thêm
một lần nữa đánh tan hơn 150 chiến thuyền, phá tan vòng kiềm tỏa, cắt
đứt con đường biển huyết mạch tải lương của thủy quân Hideyoshi mà
không bị một tổn thất nào. Không may, trong trận quyết chiến cuối cùng
này Đề đốc Yi vô tình bị một loạt đạn bắn trúng,
ông tử trận.
Cuộc đời của Đề đốc Yi Sun-sin là một thiên bi hùng ca vĩ
đại. Ông không những là một anh hùng dân tộc của người Triều Tiên mà
còn được tôn vinh là một vị đề đốc thiên tài trong lịch sử hải quân thế
giới.
Năm 1598, Hideyoshi qua đời. Cuộc chinh phạt Triều Tiên tốn kém
cũng chết theo Hideyoshi. Vài trăm năm sau, ở đầu thế kỷ 20 quân
phiệt Nhật khởi động chiến tranh tiến chiếm Triều Tiên và đại lục Trung
Hoa. Họ dùng con đường tiến quân cũ tái hiện giấc mộng xâm lăng nhưng
bất thành của lãnh chúa Hideyoshi. Lịch sử lặp
lại một cách tàn nhẫn và con người dù thắng hay thua đã phải trả cái
giá quá đắt.
Sau gần ba giờ đồng hồ đọc và tham khảo các tài liệu lịch
sử, tôi bước ra khỏi thành Osaka mang một khoái cảm lâng lâng như vừa
xem xong một cuốn phim lịch sử thú vị.
***
Hơn 400 năm trước Oda Nobunaga đã đứng trước bước ngoặt
lịch sử. Nối gót Nobunaga, Toyotomi Hideyasu hoàn thành sự nghiệp thống
nhất đất nước. Sau khi Hideyasu qua đời và sau nhiều cuộc tranh chấp
quyền lực đẫm máu với các thế lực xung quanh
và gia tộc của Hideyoshi, Tokugawa Ieyasu bước lên kế tục Toyotomi Hideyoshi. Tướng
quân (Shogun) Tokugawa đẩy lùi quá khứ chiến tranh và mở ra thời đại
Edo (Mạc Phủ) thái bình thịnh trị, văn hóa rực rỡ, kinh tế thăng hoa,
tràn đầy hào khí dân tộc, kéo dài 15 đời gần 270 năm. Một sự kiện chưa
từng thấy trong lịch sử dựng nước Nhật Bản. Người
Nhật may mắn có một lãnh tụ như Tokugawa biết yêu nước thương dân và
tầm nhìn sâu xa. Những kẻ sĩ samurai của thời đại Edo học tập kinh điển
Nho học một cách chọn lọc, một tay cầm kiếm, một tay cầm sách, văn võ
song toàn. Thời đại Edo hòa bình đã tạo ra và
khẳng định những giá trị nghệ thuật lồng trong tinh thần mỹ học Nhật
Bản, định hình tinh hoa văn hóa và khoa học kỹ thuật. Những kẻ sĩ
samurai kiệt xuất của thời đại Edo mang tinh thần võ sĩ đạo anh hùng bất
khuất. Họ đại diện cho lý tưởng “chân thiện mỹ”
tỏa sáng như những đóa hoa anh đào rực rỡ trong ánh bình minh đã tạo
nên cuộc Minh Trị Duy Tân có ảnh hưởng và đóng góp sâu sắc đến sự thành
hình của một Nhật Bản cường thịnh và hiện đại. Bác sĩ Asaba Sakitaro, ân
nhân của cụ Phan Bội Châu, mang dòng máu khảng
khái nhân hậu từ người cha từng tham gia tranh đấu cho cuộc vận động
Minh Trị Duy Tân [1].
Nhật Bản ngày nay cũng đang đứng trước một bước ngoặt. Trước
một Trung Quốc trỗi dậy, một Triều Tiên cực đoan và một Hàn Quốc tiềm
năng, Nhật Bản đang tìm thế đứng cân bằng trong vùng địa chính trị cực
kỳ sôi động. Sự tụt giảm dân số, thiếu lao động trong những dịch vụ xã
hội khiến cho chính
phủ Nhật phải gia tăng nhân số bằng cách tiếp nhận người nhập cư nước ngoài.
Bây giờ, người da trắng hay da màu nói tiếng Nhật lưu loát, tự nhiên,
không còn là hiện tượng lạ lẫm như vài mươi năm trước. Xã hội Nhật đang
được “quốc tế hóa”. Như một cánh
cửa khi được mở toang, những luồng gió mới và bụi bậm cùng đua nhau
tuồn vào. Cái gọi là xã hội “đa văn hóa” mà các chính phủ phương Tây
đang loay hoay điều chỉnh tìm sự hài hòa giữa cộng đồng chính mạch và
cộng đồng sắc tộc sẽ ảnh hưởng thế nào đến một xã
hội thuần chủng Nhật Bản khi số người nhập cư gia tăng? Tinh
thần võ sĩ đạo
đẹp như đóa hoa anh đào đã héo tàn từ lâu, không phải vì thời gian, mà
vì sự thờ ơ của những người trẻ Nhật Bản vô tư thích hưởng thụ. Nhưng hãy nhìn
gần hơn, cung cách lễ độ, dịu dàng, khiêm tốn, tương kính, kỷ cương,
cảm thông (omoiyari), tôn trọng luật pháp, ép mình vì tập thể của truyền
thống tốt đẹp Phù Tang liệu có tan chảy trong cái nồi lẩu tả-pín-lù “đa văn hóa”?
Tha thiết lắm, xin thời gian hãy cho tôi câu trả lời phủ định.
Trương
Văn Tân
(Từ Cảnh chuyển)
Chuyện giờ mới biết
Trả lờiXóaKý ức chuyến đi
Trả lờiXóaCâu chuyện rất hấp dẫn, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa