Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022

Góc Việt Thi : Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (10)

Góc Việt Thi : 
                           Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (10)


46. Bài thơ VÂN ĐỒN CẢNG KHẨU  :

    雲屯港口                 VÂN ĐỒN CẢNG KHẨU
港口凄迷日正曛,   Cảng khẩu thê mê nhật chính huân,
輕舟晴泛萬山雲。   Khinh chu tình phiếm vạn sơn vân.
海邊士女遙言笑,   Hải biên sĩ nữ dao ngôn tiếu,
風打船頭聽不聞。   Phong đả thuyền đầu thính bất văn !
               黎聖宗                                  Lê Thánh Tông
     
* Chú Thích :
   - VÂN ĐỒN CẢNG KHẨU 雲屯港口 : Cửa biển của Cảng Vân Đồn. Vân Đồn là tên thương cảng ở lộ An Bang thời Lý, Trần, Lê. Nay thuộc tỉnh Quảng Ninh.
   - Thê Mê 凄迷 : THÊ là Thê Lương 凄涼 lạnh lẽo, vắng lặng; MÊ là Mê mông 迷濛 là mờ mịt, mơ hồ. Nên THÊ MÊ là Vắng vẻ mơ hồ.
   - Nhât Chính Huân 日正曛 : Ánh nắng vàng vọt lúc mặt trời sắp lặn.
   - Khinh Chu Tình Phiếm : Con thuyền nhẹ trôi nổi trong nắng ráo.
   - Sĩ Nữ 士女 : Từ gọi chung "Bọn con gái", "Đám con gái". Khác với NỮ SĨ 女士 : là từ kính trọng dùng để chỉ một bà hay một cô nào đó có tài năng đặc biệt.
   - Dao Ngôn Tiếu 遙言笑 : DAO hay DIÊU là Xa xa; nên DAO NGÔN TIẾU là tiếng cười nói xa xa.
   - Phong Đả Thuyền Đầu 風打船頭 : là Gió thổi ập vào đầu thuyền, là gió ngược thuyền; Vì ĐẢ ĐẦU PHONG 打頭風 là Làn Gió Ngược.
   - Thính Bất Văn 聽不聞 : THÍNH là Nghe được; VĂN là Nghe ngóng, nghe rõ. Nên THÍNH BẤT VĂN là nghe được (tiếng nói tiếng cười) mà nghe không rõ (là đang cười nói điều gì !).
 
* Nghĩa bài thơ :
                        CẢNG KHẨU VÂN ĐỒN
        Cảng khẩu vắng lặng mờ mịt trong ánh nắng chiều; Con thuyền nhẹ như nổi trôi lướt trong nắng vượt qua muôn vạn núi mây. Bên bờ biển xa xa vọng lại tiếng cười nói của đám con gái, nhưng vì gió ngược thổi ập vào đầu thuyền nên nghe không rõ là bọn họ đang cười nói điều chi !

       Tứ thơ quả là thi vị, mang khẩu khí phóng khoáng nên thơ của một thi sĩ tài hoa chứ không phải là giọng điệu của một đấng quân vương nữa. Chả trách ông là chủ súy của Hội Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú có khác !  Đọc bài thơ của nhà vua làm cho tôi chập chờn nhớ lại những lời ca cuối trong bản nhạc "Đường Lên Sơn Cước" của nhạc sĩ Lê Bình...

      "...Buồn nghe những nàng... sơn nữ đùa ... bên suối đẹp ... tôi cứ tưởng chừng như tiếng ai cười !..."

* Diễn Nôm :
                          VÂN ĐỒN CẢNG KHẨU
             
               Nắng chiều cửa khẩu cảnh mông lung,
               Thuyền nhẹ núi mây mấy vạn trùng.
               Thiếu nữ bên bờ cười nói rộn,
               Gió gào thuyền lướt tiếng mông lung !
    Lục bát:
               Mông lung cửa khẩu chiều tàn,
               Trời quang thuyền nhẹ vượt ngàn núi mây.
               Nói cười thiếu nữ vui thay,
               Mơ hồ trong gió khiến ai chạnh lòng !                                                    
                                                    Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

47. Bài thơ VẤN HẰNG NGA THI : 

    問姮娥詩                  VẤN HẰNG NGA THI
始自夫妻相反目,     Thỉ tự phu thê tương phản mục,
清虛夜夜一身孤。     Thanh hư dạ dạ nhất thân cô.
年年兔擣長生藥,     Niên nên thố đảo trường sanh dược,
曾贈西行逐客無。     Tằng tặng tây hành trục khách vô ?
               黎聖宗                                    Lê Thánh Tông
   
* Chú thích :
    - VẤN HẰNG NGA THI 問姮娥詩 : Thơ hỏi Hằng Nga; Thơ hỏi Chị Hằng.
    - Thỉ (Thủy) Tự 始自 : Bắt đầu từ; Khởi đi từ...
    - Phản Mục 反目 : là Trở Mắt; Chữ Nho gọi Trở Mắt; Ta gọi là Trở Mặt. Phu Thê Tương Phản Mục 夫妻相反目 : là "Vợ chồng trở mặt nhau", ý nói là "Vợ chồng bất hòa; Vợ chồng giận nhau". Theo tích của Hằng Nga 姮娥 và Hậu Nghệ 后羿 như sau :
      Hằng Nga là vợ của Hậu Nghệ, người anh hùng bắn rơi chín con quạ lửa, xin được thuốc trường sinh của bà Tây Vương Mẫu, chưa kịp uống thì Hằng Nga nhân lúc chồng đi vắng lấy trộm thuốc uống vào, nên thân mình nhẹ nhỏm bay tuốt lên trên cung trăng. Từ đó một thân một mình ở mãi trong cung Quảng Hàn lạnh lẽo.
    - Thanh Hư 清虛 : là Thanh Tịnh Hư vô 清淨虛無, chỉ sự thanh cao đạm bạc không chú trọng đến vật chất; Chỉ không gian trống trải không có gì cả; Chỉ sự trống trải của mặt trăng; Chỉ chỗ ở của những người tu tiên là THANH HƯ CUNG 清虛宮. Trong bài thơ từ THANH HƯ dùng để chỉ Mặt Trăng.
    - Đảo 擣(搗) : là Gĩa, Đập; Đảo Trường Sinh Dược 擣長生藥 : là Giã thuốc trường sinh.
    - Tằng 曾 : là Đã từng; TẰNG TẶNG 曾贈 là Đã từng biếu tặng. Cặp từ "TẰNG... VÔ" có nghĩa : "Đã từng... chưa ?"
    - Tây Hành Trục Khách 西行逐客 : là Khách bị trục xuất đi về hướng tây. Đây là một trong sáu tích theo Thần Thoại Trung Hoa về "Con thỏ ngọc giã thuốc trong cung trăng" như sau :
      Tây Bá Hầu Cơ Xương 姬昌 nổi tiếng là thánh nhân ở phía tây, Trụ Vương sợ nên triệu về triều giam lỏng ở thành Dữu Lý. Con trai trưởng của Cơ Xương là Bá Ấp Khảo 伯邑考 người đẹp trai lại văn hay chữ tốt giỏi đàn cầm, đến triều ca để tìm cách cứu cha, Không ngờ lọt vào mắt xanh của Đắc Kỷ là ái phi của Trụ Vương. Khi không ve vãn được Bá Ấp Khảo, Đắc Kỷ bèn dèm pha với Trụ Vương giết Bá Ấp Khảo rồi lấy thịt làm bánh cho Cơ Xương ăn. Tây Bá Hầu biết là thịt của con mình nhưng vẫn ăn để được vua Trụ thả mình về phía Tây đất Kỳ Sơn. Khi vừa về đến đất Tây Chu thì Tây Bá Hầu thấy trong bụng nhộn nhạo nôn nao, bèn há miệng ói ra ba con thỏ trắng. Ông biết đó là ba hồn (chín vía) của Bá Ấp Khảo kết tụ lại mà thành, nên đau lòng rơi lệ, cũng vừa lúc đó Hằng Nga dâng lệnh của bà Nữ Oa đến rước ba con thỏ trắng như ngọc về cung trăng để làm công việc giã thuốc trường sinh cho bà Tây Vương Mẫu.  
* Nghĩa bài thơ :
                       THƠ HỎI CHỊ HẰNG NGA
       Bắt đầu từ lúc vợ chồng bất hòa trở mặt với nhau, thì đêm đêm trong cung Thanh Hư nàng cô đơn vò võ có một mình một thân. Năm này qua năm khác con thỏ ngọc vẫn gĩa thuốc trường sinh; đã từng tặng thuốc đó cho người khách bị trục xuất đi về hướng tây chưa ?!

* Diễn nôm :
                        VẤN HẰNG NGA THI

                   Từ lúc vợ chồng trở mặt đây,
                   Đêm đêm cô lẻ bóng trăng gầy.
                   Năm năm thỏ ngọc chày nghiền thuốc,
                   Đã tặng cho người khách phía tây ?!
      Lục bát :
                   Vợ chồng trở mặt từ đây,
                   Đêm đêm chiếc bóng trăng gầy buông lơi.
                   Năm năm giã thuốc thỏ trời...
                   Trường sinh đã tặng cho người về tây ?!
                                                      Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
 
 48. Bài thơ VŨ TỄ TIỂU CHƯỚC :

  雨霽小酌               VŨ TỄ TIỂU CHƯỚC
皎然寒鏡出塵函,    Kiểu nhiên hàn kính xuất trần hàm,
疏雨輕風急走南。    Sơ vũ khinh phong cấp tẩu nam.
主客談鋒雷轉夜,    Chủ khách đàm phong lôi chuyển dạ,
即忘城鼓已敿三。    Tức vong thành cổ dĩ kiều tam !
         黎聖宗                           Lê Thánh Tông


* Chú thích :
    - Vũ Tễ 雨霽 : TỄ là trời mưa vừa tạnh; VŨ TỄ là từ kép chỉ Trời quang mây tạnh. TIỂU CHƯỚC 小酌: là Chuốc rượu nho nhỏ; Uống rượu đơn sơ.
    - Kiểu Nhiên 皎然 : KIỂU 皎 Có bộ BẠCH 白 bên trái, nên có nghĩa là sáng trắng, sáng bàng bạc như ánh trăng sáng gọi là KIỂU NGUYỆT 皎月. Có bản ghi chữ HIỂU 晈 có bộ NHẬT bên trái nên có nghĩa là Sáng chói chan, sáng rực rỡ, không thích hợp để tả ánh sáng của vầng trăng. 
    - Hàn Kính 寒鏡 : là Mảnh gương lạnh, chỉ mặt trăng lạnh lẽo.
    - Trần Hàm 塵函 : HÀM là cái vỏ bọc, cái hộp; nên TRẦN HÀM 塵函 là cái hộp cái vỏ bọc của trần gian. Hàn Kính Xuất Trần Hàm 寒鏡出塵函 có nghĩa : (Vầng trăng mọc lên) như là mãnh gương lạnh được lấy ra khỏi cái vỏ bọc của trần gian vậy.
    - Sơ Vũ khinh phong 疏雨輕風 : là Mưa thưa gió nhẹ, ý chỉ Con mưa rào chỉ thoáng qua.
    - Câu 3 : PHONG 鋒 có bộ KIM 金 là Kim loại bên trái, có nghĩa là vật bén nhọn, sắc bén, nên ĐÀM PHONG 談鋒 là Đàm luận cắc bén sôi nổi. LÔI 雷 có bộ VŨ 雨 là Mưa ở phần trên, có nghĩa là Sấm chớp vang rền. Nên LÔi CHUYỂN DẠ 雷轉夜 có nghĩa Rôm rả vang rền suốt đêm. Cả câu CHỦ KHÁCH ĐÀM PHONG LÔI CHUYỂN DẠ 主客談鋒雷轉夜 Có nghĩa : Chủ và khách cùng đàm đạo sôi nổi rôm rả suốt cả đêm. Câu nầy có xuất xứ từ 2 câu thơ trong bài thơ "Tuyết Khê Thừa Hứng 雪溪乘興 của Tô Đông Pha 蘇東坡 đời Tống như sau :
                   
                 溪山雪月两佳哉, Khê sơn tuyết nguyệt lưỡng giai tai,
                 賓主談鋒夜轉雷。 Tân chủ ĐÀM PHONG dạ chuyển LÔI.
     Có nghĩa :
                 Núi khe trăng tuyết thảy đẹp xinh,
                 Chủ khách râm ran chuyện suốt đêm !
                 
    - Kiều 敿 : là Ràng buộc, Liên can, dính líu. Đây là chữ CỔ ít khi được sử dụng. Do tự dạng tương cận, có thể đã bị nhầm lẫn với chữ XAO 㪣(敲) là Khỏ, là Gỏ, là Đánh. Trong câu thơ "Thành cổ dĩ KIỀU tam 城鼓已敿三" : Vô nghĩa. Phải là "Thành cổ dĩ XAO tam 城鼓已㪣三" Có nghĩa : Trống trên thành đã đánh ba hồi, đã điểm ba, có nghĩa là đã "Nửa đêm giờ Tý canh ba" rồi !

* Nghĩa bài thơ :
                            BỮA TIỆC NHỎ SAU CƠN MƯA
        Vầng trăng sáng mọc lên như mãnh gương lạnh lẽo được lấy ra khỏi cái vỏ bọc của trần gian. Cơn mưa rào gió nhẹ như gấp gáp chuyển cả về phía nam. Chủ và khách cùng đàm đạo sôi nổi rôm rả suốt cả đêm, quên mất cả tiếng trống trên thành đã điểm ba hồi rồi !

* Diễn Nôm :
                             VŨ TỄ TIỂU CHƯỚC

                  Trăng sáng như gương lạnh vượt ngàn,
                  Mưa rào gió nhẹ lướt về nam.
                  Râm ran chủ khách rền đêm vắng,
                  Quên mất trống thành đã điểm tam !
     Lục bát :
                  Như gương trăng vượt lên ngàn,
                  Mưa rào gió cuốn kéo tràn về nam.
                  Luận đàm chủ khách râm ran,
                  Trống thành giục giã canh tàn điểm ba.
                                           Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

 49. Bài thơ  NGỰ CHẾ THIÊN NAM ĐỘNG CHĐỀ :
     
御制天南洞主題     NGỰ CHẾ THIÊN NAM ĐỘNG CHỦ ĐỀ
 
巨浸汪洋朝百川,   Cự tẩm uông dương triều bách xuyên,
亂山碁布碧連天。   Loạn sơn kỳ bố bích liên thiên.
壯心初感咸三股,   Tráng tâm sơ cảm Hàm tam cổ,
信手遙提巽二權。   Tín thủ dao đề Tốn nhị quyền.
宸北摳機森虎旅,   Thần bắc khu cơ sâm hổ lữ,
海東烽燧熄狼煙。   Hải đông phong toại tức lang yên.
南天萬古山河在,   Nam thiên vạn cổ sơn hà tại,
正是修文偃武年。   Chính thị tu văn yển võ niên !
              黎聖宗                         Lê Thánh Tông

  
* Chú thích :
  Xuất xứ của bài thơ : Bài thơ này được viết bằng chữ Hán trên vách núi Truyền Đăng, tỉnh Quảng Ninh, lúc nhà vua mới 26 tuổi, có nghĩa là đã lên ngôi được 8 năm rồi. Trước bài thơ có phần lạc khoản (đề tựa) gồm 49 chữ có nội dung như sau : “Tháng hai, mùa xuân, năm Quang Thuận thứ 9 (1468), ta chỉ huy sáu quân duyệt võ trên sông Bạch Đằng. Hôm ấy gió hoà cảnh đẹp, biển không nổi sóng, ta vượt qua Hoàng Hải, đi tuần An Bang, đóng quân dưới núi Truyền Đăng, bèn mài đá đề một bài thơ”. 
   - THIÊN NAM ĐỘNG CHỦ 天南洞主 : là tên hiệu của vua Lê Thánh Tông.
   - Cự Tẩm Uông Dương 巨浸汪洋 : CỰ TẨM là vùng nước lớn; UÔNG DƯƠNG là Biển rộng mênh mông. CỰ TẨM UÔNG DƯƠNG là thành ngữ chỉ thế nước mênh mông của biển lớn bao la.
   - Triều 朝 : là Chầu. Nếu chữ Triều 潮 có ba chấn Thủy thì có nghĩa là THUỶ TRIỀU 水潮. TRIỀU BÁCH XUYÊN 朝百川 là Trăm con sông đều chầu về (biển lớn).
   - Kỳ Bố 碁布 : là Được bày bố như những quân cờ. 2 hình thức của chữ KỲ 棋,碁 là CỜ. Thời xưa các quân cờ làm bằng ĐÁ nên viết bằng bộ THẠCH 碁 bên dưới; Sau các quân cờ được đẽo gọt bằng CÂY, nên chữ KỲ 棋 có bộ MỘC bên trái. 
   - Tráng Tâm 壯心 : là Hùng tâm tráng chí 雄心壯志, là lòng hăng hái để làm việc lớn.
   - Hàm Tam Cổ 咸三股 : HÀM là Quẻ thứ 31 trong 64 quẻ của sách Chu Dịch, nằm giữa quẻ Cấn là Núi non và quẻ Đoài là Ao hồ đầm trạch; nên TỐN là "Trạch SƠN hÀM 澤山咸" là bao gồm cả NÚI NON AO HỒ SÔNG BIỂN. Nghĩa của chữ Hàm là Bao gồm, Hàm còn hàm ý "giao cảm" là liên kết lại với nhau. 
   - Tín Thủ 信手 : là Thuận tay, sẵn tay; chỉ làm việc gì đó một cách rất dễ dàng, giơ tay ra là có được ngay. Tín Thủ Dao Đề 信手遙提 : Chỉ cần giơ tay ra là ở ngoài xa xa cũng có thể xách lên được, nắm lấy được.
   - Tốn Nhị Quyền 巽二權 : TỐN là Quẻ thứ 57 trong 64 quẻ của sách Chu Dịch, trước sau đều do các quẻ chỉ về gió trong Bát Quái kết hợp lại, nên TỐN là Gió, tượng trưng cho ý "Vô Khổng Bất Nhập 無孔不入" là "không có cái lổ nào mà không vào được". Theo Giáp Cốt Văn TỐN là Thuận Tòng, là Xuôi theo; còn có nghĩa là Khiêm tốn, khiêm nhượng. Chủ về hướng Đông Nam.
   - Thần Bắc 宸北 : THẦN là cung vua ở. Ở đây có nghĩa "Triều đình nơi hướng bắc" Chỉ kinh đô Đông Quan (Thăng Long).
   - Khâu Cơ 摳機 : KHÂU là Moi ,móc, nắm, bắt. KHÂU CƠ là Thừa cơ, thừa dịp.
   - Sâm Hổ Lữ 森虎旅 : SÂM 森 ở đây là Động từ, có nghĩa là "Làm cho rậm rạp, cho nhiều ra thêm" để ăn với Động từ TỨC 熄 là Dập tắt ở câu dưới. HỔ LỮ 虎旅 : là từ kép được nói gọn lại của câu "Hổ bôn thị dữ Lữ bôn thị 虎賁氏與旅賁氏"là hai đạo quân tinh nhuệ thiện chiến của triều đình. Nên HỔ LỮ là từ chỉ chung cho "Quân đội dũng mãnh".
   - Phong Toại 烽燧 : Khi kẻ địch đến xâm lăng, thì đốt lửa để cảnh báo và truyền tin. Ban đêm đốt cho lửa cháy cao để ở xa trông thấy, gọi là PHONG 烽, hay PHONG HỎA 烽火. Ban ngày un khói bằng phân của chó sói cho khói không tan và vút lên cao để báo tin, thì gọi là TOẠI 燧; Vì đốt bằng phân chó sói nên còn gọi là LANG YÊN 狼煙 hay LANG TOẠI 狼燧.
   - Tu Văn Yển Võ 修文偃武 : là "Tu sửa văn học, ngưng việc võ bị". Cuối đời nhà Thương, vua Trụ vô đạo, Châu Võ Vương Cơ Phát khởi binh chinh phạt, lật đổ nhà Thương dựng nên nhà Châu. Chiến tranh kết thúc, Châu Võ Vương ra lệnh đình chỉ về quân bị, cho lính giải ngũ về quê, thả trâu, bò, ngựa cho về giúp nông dân trồng trọt; chăm lo về văn hóa giáo dục, khuyến khích con em chú trọng về văn học; hình thành thành ngữ YỂN VÕ TU VĂN 偃武修文 như lời thơ của thi nhân Tiết Phùng 薛逢 đời Đường trong bài "Cửu Nhật Khúc Trì Du Diểu 九日曲池游眺" :

                 正當海晏河清日, Chính đương hải yến hà thanh nhật,
                 便是修文偃武時。 Tiện thị TU VĂN YỂN VÕ thì.
Có nghĩa :
            Đúng lúc thanh bình sông nước lặng,
            Là khi ngưng võ để tu văn.

      Trong tác phẩm "Sãi Vãi" cụ Nguyễn Cư Trinh cũng đã cho ông Sãi luận câu :

                        Thuở thái bình YỂN VÕ TU VĂN,
                        Cơn bát loạn YỂN VĂN TU VÕ !

* Nghĩa bài thơ :
                              VUA THIÊN NAM ĐỘNG CHỦ ĐỀ THƠ
       Tất cả trăm dòng sông đều đổ chầu về biển cả mênh mông, núi non như các quân cờ được bày bố một vùng xanh biếc liền tới trời. Hùng tâm tráng chí lúc ban đầu như bao gồm cả núi non sông hồ ao biển, và chỉ giơ tay ra là có thể thu tóm cả hai vùng đông nam một cách thuận lợi. Triều đình phía bắc ta cũng đã thừa cơ thiết lập thêm các đội quân tinh nhuệ, còn biên phòng ở biển đông cũng đã tắt hết lửa khói chiến tranh. Trời Nam ta muôn đời núi sông vẫn còn đó, đây cũng chính là lúc nên tu sửa lại nền văn học và ngưng đi việc võ bị của chiến tranh (Vì đất nước đã thanh bình hùng mạnh rồi!).
       Đây quả là giọng điệu hào hùng đầy nhiệt huyết, là hùng tâm tráng chí của một nhà vua trẻ tài ba trong lúc duyệt binh, nhìn non sông gấm vóc trong tầm tay cai trị của mình mà tự hào về đất nước "Nam Thiên" đang thanh bình thịnh trị trong cái thế Yển Võ Tu Văn một cách tự hào.
                     
* Diễn Nôm :
                   NGỰ CHẾ THIÊN NAM ĐỘNG CHỦ ĐỀ

                  Trăm sông chầu đến biển ngàn khơi,
                  Núi tựa cờ vây biếc tận trời. 
                  Tráng chí hùng tâm gồm mấy cỏi,
                  Dao đề tín thủ tóm hai nơi.
                  Bắc phương binh lực gom tinh nhuệ,
                  Đông hải khói lang cũng tắt rồi.
                  Muôn kiếp trời Nam bền vững mãi,
                  Tu văn yển võ chính là thời !
     Lục bát :
                  Trăm sông chầu hết biển khơi,
                  Như cờ non nước tận trời mênh mông.
                  Hùng tâm gom cả núi sông,
                  Giang tay thu tóm tây đông hai vùng.
                  Bắc phương hỗ lữ binh hùng,
                  Biển đông lửa khói đều cùng tắt ngang.
                  Trời Nam non nước vững vàng,
                  Tu văn yển võ an bang lúc này !
                                                Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

  50. Bài thơ TỰ THUẬT  :                

     自述                             TỰ THUẬT
五十年華七尺軀,     Ngũ thập niên hoa thất xích khu,
剛腸如鐵卻成柔。     Cang tràng như thiết khước thành hư.
風吹窗外黃花謝,     Phong xuy song ngoại hoàng hoa tạ,
露浥庭前綠柳癯。     Lộ ấp đình tiền lục liễu cù.
碧漢望窮雲杳杳,       Bích hán vọng cùng vân diểu diểu,
黃梁夢醒夜悠悠。     Hoàng Lương mộng tỉnh dạ du du.
蓬萊山上音容斷,     Bồng Lai sơn thượng âm dung đoạn,
冰玉幽魂入夢無。     Băng ngọc u hồn nhập mộng vô ?!
              黎聖宗                                    Lê Thánh Tông
        
* Chú thích :
    - TỰ THUẬT 自述 : Tự kể lể về bản thân mình. Sử chép, tháng giêng năm Đinh Tị (1497), nhà vua bệnh nặng, biết khó qua khỏi, ông bèn tựa ngọc kỷ mệnh cho thái tử Tăng (Lê Hiến Tông) lên nối ngôi và làm bài thơ tuyệt mệnh này. Đây là bài thơ cuối cùng trong đời ông. Ông mất ngày 29 tháng giêng năm Đinh Tị (1497). Qua bài này, tâm tư nhà vua rất trong sáng, khảng khái; nhận thức cuộc sống như những nhân sĩ, những thi sĩ bình thường; coi cuộc đời rốt cuộc cũng như là một giấc mộng, không hề có giọng “kẻ cả dạy đời” gì cả.
    - Khu 軀 :là Thân Khu 身軀 là Thân thể. THẤT XÍCH KHU là Tấm thân bảy thước.
    - Cang Tràng hay Cương Trường 剛腸 : CANG là Cứng; TRÀNG là Ruột; Nên CANG TRÀNG chỉ Lòng dạ cứng rắn.
    - Hoàng Hoa 黃花 : là Hoa vàng, là Hoa cúc của mùa thu.
    - Lộ Ấp 露浥 : LỘ là hãt móc hạt sương; ẤP là Thấm ướt, ngấm ướt.
    - Bích Hán 碧漢 : Chỉ bầu trời xanh biếc của mùa thu.
    - Hoàng Lương Mộng 黃梁夢 : là Giấc Kê Vàng. Theo tích Chẩm Trung Ký 枕中記đời Đường : Lư Sinh người xứ Hàm Đan, thi rớt, gặp đạo sĩ họ Lữ đưa cho chiếc gối bảo kê đầu lên mà ngủ trong lúc chủ quán đang bắt nồi kê lên nấu. Lư Sinh thấy mình về quê cưới được vợ giàu và đẹp; năm sau lại thi đậu tiến sĩ; rồi làm quan suốt 30 năm thăng đủ các chức; Cuối cùng là Tể Tướng chỉ sau có nhà vua, hưởng hết vinh hoa phú quý trên đời; Năm đứa con trai lại đỗ đạt làm quan, cuộc sống vinh hiễn kéo dài đến 80 tuổi mới nhuốm bệnh mà qua đời... Vừa lúc đó Lư Sinh cũng giật mìh tỉnh mộng, đạo sĩ họ Lữ vẫn còn ngồi đó, và nồi kê vàng của chủ quán đang nấu còn chưa chín tới. Chàng cảm thán cho cuộc đời phu du hư ảo, vinh hoa phú qúy cũng chỉ như là một giấc mộng thoáng qua mà thôi. Như 4 câu thơ mở đầu cho bài hát nói Vịnh Nhân Sinh của cụ Nguyễn Công Trứ như sau :

                    Ôi, nhân sinh là thế ấy,
                    Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao.
                    Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào,
                    Vừa tỉnh giấc NỒI KÊ chửa chín.

    - Bồng Lai 蓬萊 : Theo truyền thuyết trong Sơn Hải Kinh 《山海经》và các sách xưa cũng có ghi lại chuyện năm tiên đảo bị chìm hết hai, nên chỉ còn lại có “Phương Hồ” 方壺, “Doanh Châu” 瀛洲, và “Bồng Lai” 蓬萊. Tục gọi là " Bồng Lai Tam Đảo 蓬莱三岛 ". Vì là nơi của tiên ở nên còn gọi là " Bồng Lai Tiên Cảnh 蓬莱仙境 " để chỉ cảnh đẹp của tiên giới mà trên đời không thể có được. Sở dĩ Bồng lai nổi tiếng hơn hai tiên đảo kia là vì đó là nơi ở của Bát Tiên trong sự tích Bát Tiên Quá Hải. Trong tác phẩm Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh, khi luận về chữ VUI, ông Sãi đã nói với bà Vãi rằng :
                Non BỒNG LAI bước tới, sãi vui với Bát Tiên,
                Núi Thương Lãnh tìm lên, sãi vui cùng Tứ Hạo.
 
    - Băng Ngọc U Hồn 冰玉幽魂 : BĂNG NGỌC chỉ vừa lạnh như băng vừa trong sáng như ngọc; U HỒN là Mảnh hồn nơi u minh vắng lặng; Nên BĂNG NGỌC U HỒN thường dùng để chỉ hồn phách của các cô gái trong trắng chết non; Ở đây, nhà vua mượn để ví mình khi chết rồi thì hồn phách cũng cô đơn lạnh lẽo giống như là những người thường mà thôi.

* Nghĩa bài thơ :
                                          TỰ THUẬT
      Tấm thân bảy thước đã trãi qua năm chục niên hoa rồi, lòng dạ có cứng rắn như sắt đã cũng phải hóa mềm ra thôi. Như gió thu hiu hắt ngoài song làm tàn tạ những đóa hoa vàng, và sương thu cũng đã đẫm ướt các cành liễu gầy gò trong sân đình. Ngóng nhìn mút mắt bầu trời thu cao xanh ngát chỉ thấy các đám mây trôi xa xa; Đôi khi như chợt tỉnh giấc kê vàng thì lại thấy đêm trường dài dằng dặc. Thanh sắc dìu dặc trên núi Bồng Lai cũng đà đoạn tuyệt, biết đến bao giờ mảnh hồn cô đơn lạnh lẽo nầy mới nhập được vào mộng đây ?!
      So với hùng tâm tráng chí của 24 năm trước, thì sau cơn bạo bệnh tinh thần của nhà vua đã xuống rất thấp; Còn đâu hào khí ngất trời của những năm xưa khi duyệt binh trên sông biển với niềm tự hào "南天萬古山河在 Nam thiên vạn cổ sơn hà tại". Trước thềm sinh, lão, bệnh, tử, nhà vua cũng có cái tâm lý như bao  dân thường khác : Uy quyền tột bực, phú qúy vinh hoa theo đuổi trong đời rốt cuộc rồi cũng qua đi như một giấc hoàng lương : Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Chỉ còn lại một mảnh u hồn ước mơ được về nơi Bồng Lai Tiên Cảnh !

* Diễn Nôm :
                              TỰ THUẬT
                  

                 Bảy thước tấm thân ngũ thập nầy,
                 Cang trường như sắt cũng mềm đây.
                 Ngoài song gió hắt hoa vàng rụng,
                 Trước cổng sương sa liễu sắc gầy.
                 Trời biếc vời trông mây vợi vợi,
                 Kê vàng tỉnh mộng giấc ngây ngây.
                 Bồng Lai thanh sắc sao biền biệt,
                 Hồn lạnh bao giờ nhập mộng đây ?!
    Lục bát :
                 Năm mươi bảy thước tấm thân,
                 Cang trường như sắt dần dần mềm ra.
                 Ngoài song gió hắt rụng hoa,
                 Trước sân sương đẫm là đà liễu bay.
                 Trông trời mây lướt thướt trôi,
                 Kê vàng chợt tỉnh đêm dài thưởt tha.
                 Bồng Lai thanh sắc đâu xa,
                 U hồn nhập mộng biết là khi nao ?!
                                                  Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

       Hẹn bài viết VIỆT THI tới !

                                                                             杜紹德
                                                                        Đỗ Chiêu Đức
 
 
 
Thêm :
🌼🌼 Thắng ngưỡng mộ và góp dịch bài TỰ THUẬT của vua Lê Thánh Tông

 

TỰ THUẬT

 

- Dịch thất ngôn

Năm chục năm dài bảy thước thân

Lòng cương trực mấy cũng nhu dần

Hoa vàng gió lộng rơi ngoài cửa

Nhánh liễu sương dầm rũ trước sân

Biếc khoảng xanh trời mây tản mạn

Trường mơ tỉnh giấc mộng bần thần

Bồng Lai thượng cảnh hòa âm dứt

Phiến lạnh neo hồn cõi định phân.

 

- Dịch lục bát

Thân vừa năm chục năm tròn

Dù cương trực vẫn hao mòn sắt gang

Gió thu rụng cánh cúc vàng

Sương dầm nhánh liễu bẽ bàng trước sân

Trời xanh mây ngó bâng khuâng

Kê vàng mộng tỉnh, bâng khuâng nỗi đời

Bồng Lai thượng cảnh thôi mời

Hồn neo phiến lạnh đợi thời nào đây?

 

ND Thắng - 220806



Mời Xem :
                       Góc Việt Thi : Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (9)

1 nhận xét:

Kính Mời Họa : THƯ CHO NGƯỜI CŨ - Thơ Hồ Nguyễn

  THƯ CHO NGƯỜI CŨ Ngày mai em khoác áo theo chồng, Anh có đôi điều gởi được không? Tình cũ đã tan không quyến luyến, Nghĩa xưa xóa hết giữ ...