Ba
tôi làm thư ký đánh máy trong Công Ty điện lực Đông Dương của Pháp trên
Nam Vang ( Compagnie Des Eaux Et D' Électricité De L' Indochine,
Phnom Penh- Cambodge
), vào cuối thập niên 40 của thế kỷ trước. Sau khi Cambodge được trao
trả độc lập cuối năm 1953, rồi đến năm 1954
nền đệ nhứt Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam được hình thành; ba tôi liền
xin vào làm việc trong Tổng Nha Công Vụ, trực thuộc Phủ Thủ Tướng, văn
phòng đặt tại đường Catinat-Tự Do, thủ đô Sài Gòn ( đối diện Bộ Nội Vụ
).
Sau
gần 4 năm đi đi, về về giữa Nam Vang và Sài Gòn, ba tôi quyết định đưa
cả nhà về sống hẳn ở Việt Nam, thay vì vẫn ở chung với bà Nội tại đường
Dekcho Damdin trên Nam Vang. Nhà của Nội tuy là một căn phố, nhưng khá
khang trang và nằm giữa con đường rậm mát bóng me xanh, với hai đầu là
hai ngã tư- có thể nói là- sầm uất nhứt của thủ đô xứ Chùa Tháp lúc bấy
giờ. Hai ngã tư đó, cũng là nơi tọa lạc của hai rạp xi nê tối tân nhứt
Nam Vang vào thời đó. Phía trái, ở
bên kia đường, tại ngã tư Dekcho Damdin và Norodom Blvd
là Ciné Lux. Còn phía bên phải,
cùng dãy
với nhà bà Nội, là rạp Prom Bayon Cinema tại giao lộ Preah Ang Yukanthor
và Dekcho Damdin.
Như
vậy, tôi có mặt tại Sài Gòn từ mùa hè 1957. Cho
tới 1960 thì hè nào tôi cũng được ba cho về Nam Vang thăm Nội, nên hình
ảnh ven đường tôi thuộc nằm lòng. Dạo đó, các
hãng xe đò chạy đường Sài Gòn- Nam Vang, khi rời Sài Gòn thường theo lộ
trình từ bến Bùi Quang Chiêu - còn gọi là đường "Cá Hấp"
(*), dành cho xe đò
lớn ( loại autobus Renault ), hoặc bến Phan Văn Hùm ( xe nhỏ,
loại Traction 5 CV hay Peugeot familiale 203
)- chạy theo đường Lê Văn Duyệt, qua ngã ba Ông Tạ, Bà Quẹo, Hóc Môn để
tới Tây Ninh, Trảng Bàng ( thời đó cũng gọi là Quốc Lộ 1 ) và Gò Dầu
Hạ, nơi có biên
giới giữa Việt Nam và Cambodge ( Cambodia ), rồi trực chỉ đến Nam Vang.
Khi
từ Nam Vang về lại Sài Gòn, thì tài xế thường quẹo trái tại ngã Tư Bảy
Hiền. Lý do là vì
đường Lê Văn Duyệt, nhỏ hẹp so với đường xá tại các nơi khác, nên hay bị
kẹt xe. Họ chạy về hướng
Lăng
Cha Cả để theo Trương Minh Ký- Trương Minh Giảng ( vắng xe hơn, do không
phải là lộ trình "huyết mạch" ) về ngang Trần Quý Cáp, qua Vườn Bờ Rô (
Jardin Des Beaux Jeux/ Vườn Tao Đàn ) rồi chạy về bến ở góc đường Lê
Lai - Phan Văn Hùm
cho tiện.
Sài Gòn khi đó còn hoang sơ lắm! Nhưng cũng thật xanh tươi với những
hàng cây cao vút, rậm mát ở khắp mọi nơi. Cây trồng từ khi nào không
biết, nhưng vào cuối thập niên 50 thì đã thấy những hàng Me, Sao, Dầu
mọc đầy trong trung tâm thành phố, chưa kể cây Cao Su cũng có mặt trong
khu vực bao gồm các đường từ Hiền Vương- Trương Minh Giảng- Lê Quý Đôn,
qua Bà Huyện Thanh Quan- Tú Xương, đến
tận ngã tư đường Trương Định- Trần Quý Cáp.
Vào
những năm cuối thập niên 50, Sài Gòn đang trên đà phát triển. Lúc đó,
sinh hoạt của thủ đô miền Nam Việt Nam tập trung vào trung tâm thành
phố, với nhà cửa san sát, phố phường đông đúc. Nếu lấy Bưu Điện và Nhà
Thờ Đức Bà làm trung tâm điểm, thì
cách đó trên không đầy 3km đường chim bay
về hướng Nam và Tây Nam, đã là ngoại ô với ruộng, vườn, kinh, rạch, ao,
trũng, đầm lầy chằng chịt. Xóm Chiếu, bên quận 4, một địa danh khá quen
thuộc của cư dân Sài Thành, nằm ngay nơi đó.
Quận
4 là một cù lao hình tam giác, bao quanh
bởi sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé và con Kinh Tẻ. Theo lời
kể, thì thời xưa ( vào
khoảng thời gian Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam lập Phủ Gia Định,
cuối thế kỷ 17 ) trên các sông, rạch, ao, hồ của vùng này mọc nhiều cây
bàng và nhứt là lác ( còn gọi là cây Cói ), nên nhiều người dân địa
phương cắt đem về dệt chiếu. Từ đó, địa danh Xóm Chiếu ra đời và tồn tại
cho đến ngày nay.
Đầu thập niên 1950, Sài Gòn đã trở thành một trong số các thương cảng
quan trọng của vùng Đông Nam Á. Đến khi có làn sóng di cư của đồng bào
miền bắc vô Nam, rồi Đệ I Cộng Hòa ra đời, thì nền kinh tế nói chung tại
miền Nam, càng thêm khởi sắc. Nhu cầu lao động tăng vọt. Dân tứ xứ kéo
về Khánh Hội, Vĩnh Hội, cư trú trong những căn nhà
dựng trên kinh, rạch, ao, đầm trong khu vực, để đi làm kiếm sống.
Do
đó, quận 4 được thành lập theo nhu cầu của sự phát triển đô thị, gia
tăng dân số và lớn mạnh về mặt kinh tế của thủ đô miền Nam Việt Nam lúc
bấy giờ. Nổi bật nhứt là sự "chuyển mình" và tân tiến hóa của
bến Thương Khẩu trên sông Sài Gòn ( tên cũ là Thương Cảng Sài Gòn, được
xây dựng từ hồi Pháp thuộc ) với chiếc kho lớn nhứt và tấp nập nhứt là
Kho 5. Đây cũng là niềm hãnh diện của
Kinh Tế và Thương Mại Sài Gòn trong thời kỳ của hai nền Cộng Hòa tại
miền Nam Việt Nam!
Vào thời điểm của cuối thập niên 50, Xóm Chiếu tuy chỉ là một phường
nhỏ, nhưng dân cư đông đúc hơn các phường còn lại ( Vĩnh Hội, Khánh Hội,
Cây Bàng...) do vị trí "đắc địa" nằm sát bờ sông Sài Gòn về phía đông
và rạch Bến Nghé ở ngay hướng Bắc.
Đồng thời, Xóm Chiếu cũng là "xương sườn" của quận 4, với các trục lộ
giao thông quan trọng, trông không khác gì một bàn cờ ca rô, với
các đường Đoàn Nhữ Hài, Hoàng Diệu, Lê Văn Linh
và
Tôn Đản chạy ngang ( theo hướng Đông- Tây ); Trình Minh Thế, Nguyễn
Trường Tộ,
Lê Thạch, Lê Quốc Hưng và
Đỗ Thành Nhơn chạy dọc ( theo hướng Nam- Bắc ).
Đường
Lê Văn Linh chạy từ đường Trình Minh Thế qua chợ, rồi nối dài tới đường
Đỗ Thành Nhơn, nơi có phông tên nước là chấm dứt. Bên kia
ngã ba Lê Văn Linh "nối dài" và Đỗ Thành Nhơn, là khu đầm lầy, có nguồn
nước xuất phát từ rạch Bến Nghé ( Con rạch này nối sông Sài Gòn tới kinh
Đôi, kinh Tẻ của các quận 6,7,8 về tận Chợ Đệm tại Bình Chánh/ Bình
Điền, rồi đổ vào sông Cần Giuộc ).
Từ
hướng bắc, đường Nguyễn Trường Tộ chạy từ
chân cầu Móng, tới Trạm Y Tế Xóm Chiếu, nơi có một khoảng đất trống khá
rộng, vốn là sân thả diều của đám nhóc tì trong vùng. Tại đó, đường
Nguyễn Trường Tộ chẻ ra hai nhánh là Lê Thạch và Lê Quốc Hưng,
chạy cặp theo hai bên hông chợ Xóm Chiếu.
Cả
hai đường này khá ngắn, chạy tới đường Lê Văn Linh là chấm dứt. Tuy
vậy, nhờ bao quanh chợ, nên nhà cửa khá sầm uất. Trên đường Lê Thạch có
nhà bảo sanh Hữu Đức, là nơi hầu hết các nhi đồng Xóm Chiếu chào đời.
Phía bên kia đường là dãy hàng quán, không chỉ nổi tiếng bên quận 4, mà
còn lan rộng qua trung tâm Sài Gòn ở hướng bắc. Dân nhậu Sài Thành không ai
không biết tới gà đút lò Tám Lọ và
ếch chiên bơ
Tư Sanh. Ngày nào cũng nườm nượp khách sành điệu đến ăn, nhậu cho tới
khuya.
Bên
kia chợ, đường Lê Quốc Hưng, tuy kém "ì xèo" hơn vì không có nhà hàng
hay quán nhậu nổi tiếng, nhưng lại được các bạn hàng khắp nơi chiếu cố
tận tình, khi các sản phẩm vùng quê theo từng mùa, đặc biệt là trái cây
và bông hoa ngày Tết, được
bạn hàng trải chiếu, bày bán cả trên lòng đường.
Nhóc
tì Xóm Chiếu không có dịp "đá cá" ( vì Cá chỉ được bày bán trên các sạp
gỗ hay thiếc ở trong chợ ), nhưng mỗi lần Tết đến là đám nhóc có dịp
phá phách khi thi nhau "lăn dưa"! Một hình thức thách nhau chứng minh sự
"bạo gan và tánh chịu chơi" của con nít. Tất nhiên, phần thưởng là mấy
trái dưa tí hon được chia phần cho cả đám. Còn khi bị bạn hàng nhéo tai,
kéo về tận nhà để mắng vốn với cha mẹ, thì không thể tránh được những
trận đòn sưng đít!
Đoạn
giữa của đường Lê Quốc Hưng cũng là nơi chánh quyền địa phương thỉnh
thoảng chọn chiếu phim, hay dựng sân khấu lộ thiên để bà con giải trí.
"Khúc Ca Mùa Hè" và giọng hát của nữ ca sĩ Linh Sơn, " Đoàn Người Lữ
Thứ", "Nhạc Rừng Khuya" với phần trình diễn của Ban Hợp Ca Đài Phát
Thanh Sài Gòn, cùng với những thước phim giới thiệu cảnh đẹp miền Nam,
cũng như những phát minh khoa học tân thời, là những hình ảnh được khán
giả Xóm Chiếu ủng hộ rất nồng nhiệt.
Con đường có lộ giới khá rộng này, cũng là nơi nam thanh, nữ tú rảo bước
mỗi tối để tận hưởng không khí
đã bớt phần..."nồng nàn" của buổi chợ trong ngày.
Con đường bách bộ chấm dứt tại khoảng đất rộng phía cuối đường Nguyễn
Trường Tộ. Nơi đây cũng là sân thả diều quanh năm
của nhi đồng Xóm Chiếu và khu vực Đỗ
Thành Nhơn- Tôn Thất Thuyết. Đến năm 1960 thì ngôi
nhà thờ Tin Lành đầu tiên của quận 4 được xây lên ngay tại khoảng đất
trống đó.
Nếu lấy chợ Xóm Chiếu làm trung tâm điểm, thì cả bốn phía đều chỉ trên dưới 200 mét! Đất chật, nhưng người đông. Ngôi chợ
nổi tiếng của cả quận 4 quả là môi trường sinh hoạt khẩn thiết đối với
một lượng người không nhỏ và gồm đủ mọi thành phần trong xã hội.
Tuổi
thơ Xóm Chiếu cũng từ đó tha hồ tìm được hương vị hồn nhiên và thú vui
của thời con nít, với công viên dành cho thiếu niên và nhi đồng tại
đường Đoàn Nhữ Hài, cạnh Ty CSQG/ Q4. Nơi đây có đầy đủ những thứ mà trẻ
nhỏ thời nào cũng mê mẩn mỗi khi được phụ huynh cho ghé qua. Công viên
tuy không rộng lớn nhưng cũng có cầu tuột, xích đu, vòng quay, thú gỗ và
một khoảng sân nhỏ đủ cho đám nhóc tha hồ chạy, nhảy.
Đến
1960, theo đà phát triển của dân số và nới rộng thổ cư; các vũng, ao,
rạch, đầm lầy, nghĩa địa và vùng đất ruộng
nằm
dọc theo đường Đỗ Thành Nhân về hướng tây,
dần dần bị san bằng, lấp, đắp. Nhóc tì Xóm Chiếu mất đi cái thú
câu lươn, bắt ếch hay tát cá ( lìm kìm, bảy màu, lia thia... ). Nhưng bù
lại, bên kia đại lộ Trình Minh Thế- chỗ đường Hoàng Diệu băng qua- có
một con đường thênh thang dẫn đến Bến Súc, là một bãi bốc dỡ hàng hóa
trên sông Sài Gòn, cũng là nơi lý tưởng cho đám nhóc tha hồ tắm mát
trong những buổi trưa hầm hập nắng.
Theo
đà phát triển của đô thị và theo chiều phồn thịnh của kinh tế miền Nam
Việt nam; đặc biệt là của Thương
Khẩu Sài Gòn, Quận 4 nói chung và Xóm Chiếu nói riêng, đã là nơi tập
trung dồn dập của khách thập phương từ cuối thập niên 50. Từ đồng bào di
cư 1954, tới những người lìa bỏ thôn trang đã mất dần an ninh vào đầu
thập niên 60, cho tới những người ở các vùng lân cận hay từ các quận
ven đô ở phía tây thủ đô Sài Gòn, ai nấy đều đổ xô về quận 4 để lập nghiệp rồi
an cư.
Khu
tứ giác Đỗ Thành Nhân, Hoàng Diệu, Trịnh Minh Thế và Lê Văn Linh ( kể
cả đoạn đường nối dài ) cùng với đường Tôn Đản bỗng chốc trở thành vùng đất được Nha Quy Hoạch
và Phát Triển Đô Thị thuở xưa, liệt vào một trong những nơi phát triển
nhanh nhứt của Đô Thành Sài Gòn. Chẳng mấy chốc, chợ Xóm Chiếu trở thành
chiếc nôi dưỡng sức sống của vùng này, kiêm chất keo gắn chặt sinh hoạt thương mại
và xã hội của thầy, thợ, bạn hàng, phu phen, bốc vác cùng những thành
phần xã hội khác.
Chỉ
qua một mùa hè của năm 1957 là Xóm Chiếu đã mang lại cho tôi một "thế
giới" mới, khi sinh hoạt hằng ngày chuyển từ nhịp trầm lắng của đường
phố êm ả, rợp bóng me xanh của Dekcho Damdin trên Nam Vang; qua những ồn
ào, ráo riết và lắm khi có cả "bạo lực", đặc biệt là "bạo lực đường
phố" quanh xóm chợ và trong khu phố từ đoạn Lê Văn Linh "nối dài" tới
phông tên nước, tại ngã ba đường Đỗ Thành Nhơn, xuống tận Tôn Đản.
Cho tới năm 1958, đoạn đường nối dài của Lê Văn Linh
( từ ngã ba giao với cuối đường Lê Quốc Hưng ) tới
Đỗ Thành Nhân hoàn toàn chưa có
chưa có Điện, Nước. Điện
đường nằm ngay trên các đường phố chính, bao quanh chợ và chỉ có một ngọn duy nhứt ngay
tại trụ đèn đặt tại ngã 3, tức ngay đầu phố. Trong các khu xóm, người
dân thắp tạm bằng đèn cầy, đèn dầu hôi, đèn khí đá và nếu ai có dư chút
tiền, thì sắm đèn Manchon ( của Pháp ), sáng hơn và ( tất nhiên là )
trông... sang hơn!
Còn
Nước?! Chiếc phông tên 4 vòi, nằm tại ngã ba Lê Văn Linh "nối dài" và
Đỗ Thành Nhơn, là nơi "ngầu hầm" nhứt của đoạn đường không đến 100 thước
này!
Nước được mở suốt ngày. Đúng ra là từ 7 giờ sáng tới 7 giờ tối. Hoạt
cảnh tại phông tên
rất náo nhiệt
và không hề ngưng nghỉ trong suốt 12 tiếng
đồng hồ đó. Tiếng thùng nước chạm nhau rầm rầm, tiếng cãi cọ; chửi bới
ỏm tỏi giữa các chị, các bà, là âm thanh không thể thiếu. Việc "thượng
cẳng tay, hạ cẳng chân" xảy ra như ăn cơm bữa.
Qua
đầu thập niên 1960 thì khác! Hạ tầng cơ sở đã được nâng cao, đời sống
phát triển thuận lợi đã mang tới cho Xóm Chiếu những thay đổi hầu như
toàn diện. Sự phồn thịnh biểu hiện rất rõ nét qua việc nhà cửa mọc lên
khắp nơi, từ trong hẻm ra tới ngoài mặt tiền đường. Tất nhiên, của các
xưởng cưa gỗ, kho hàng, kho xi măng, kho gạo cũng
xuất hiện
nhan nhản ở khá nhiều nơi trên toàn địa bàn quanh chợ Xóm Chiếu.
Bên cạnh đó là nhu cầu giải trí cũng phát triển rầm rộ không kém khi hai rạp
hát "bình dân" được mở ra cùng một lúc ở trên đường Đổ Thành Nhân ( Rạp
Văn Thuận nằm cách ngã 3 đường Lê Văn Linh- Đỗ Thành Nhân chừng 50 mét,
về hướng đường Tôn Đản ) và trong một con hẻm khá rộng lớn trên đường
Lê Văn Linh ( Rạp Hòa Bình, nằm trong khu đất trống mênh mông, nơi có
một xưởng cưa gỗ và một kho chứa gạo khá "bề thế", nằm đối diện với rạp
hát. Ngoài ra, trong khu vực này, ngoài một số nóc gia, còn có
một dãy phố biệt lập gồm 12 căn, khá khang trang và tiện nghi, do gia
đình một phú hộ gốc Hoa kiều tên Triệu Tiết xây lên để cho mướn. )
Sinh
hoạt nào có chiều đi lên, có hướng thăng tiến, cũng đều là những dấu hiệu tốt
đẹp. Duy chỉ có một thứ đáng tiếc cũng vươn dần lên theo thời gian và
theo đà tăng trưởng của dân số cùng sinh hoạt thường ngày. Đó là bãi rác
ở cuối chợ, nằm ngay góc đường Lê Thạch và Lê Văn Linh, đối diện với
con hẻm rộng thênh thang dẫn vào rạp hát Hòa Bình và các kho hàng và xưởng cưa bên kia đường.
Tại
nơi đó, Sở Vệ Sinh Đô Thành có xây một ụ rác khá to, rộng, đủ để chứa
toàn bộ những thứ phế thải sau buổi họp chợ. Nhưng dần dà rác không chỉ
nằm trong ụ, mà còn tràn ngập ra ngoài lòng đường. Nhân viên của Sở Vệ
Sinh dọn không xuể. Ngày nào nước thải từ phần rác còn dư, chưa dọn kịp,
cũng chảy tràn lan ra cả một nửa mặt đường. Người lớn mỗi lần đi ngang
qua đều không ngớt nhăn mặt. Nhóc tì Xóm Chiếu hết hứng chạy rong hay vào trong chợ
chơi trò trốn tìm trên các sạp gỗ. Đường xá "chèm nhẹp" triền miên. Hôi
hám và trông rất mất thẩm mỹ!
Tuy
vậy, hình ảnh của Xóm Chiếu nói chung vẫn là những hoài niệm thật êm
đềm. Mặc dù chỉ sống tại Xóm Chiếu trên dưới 5 năm nhưng kỷ niệm cũ, sau
hơn 60 năm, vẫn chưa nhạt nhòa trong tôi. Nét đẹp của tuổi thơ Xóm
Chiếu vẫn luôn theo tôi cho đến tận ngày nay. Trong từng con hẻm, trên
từng góc phố, qua từng ngả đường của Xóm Chiếu, đâu đâu cũng có vết chân
của đám con nít, đa số là nhóc tì húi cua, lê la đó
đây.
Phải
nói Xóm Chiếu nói chung và con đường Lê Văn Linh nối dài mang đậm nét
"vàng son" của kỷ niệm đầu đời, vẫn
luôn hằn nét trong ký ức của tôi. Những "Thằng" và "Con" ngày xưa bây
giờ ra sao? Ai còn, ai mất? Ai đã lưu vong, ai còn tranh sống trên quê
hương?! Vật đổi, sao dời huống chi con người! Trong số những mái tóc
"bum bê", đuôi gà, húi cua lẫn mấy cái đầu cạo trọc của Minh Tâm
Học Đường và Xóm Chiếu, có Ai
còn
nhớ Ai không?
Tuấn,
Toàn, Thu con bác Ba Truyện. Nhựt, Nga, Mỹ, con bác Tư Hỷ. Anh em thằng
Xuân, thằng Thu con bà Mười. Thằng Gáo "thọt chân", thằng Đáng, con ông
Tám "Đỏ" chạy xe ba gác, thằng Tình con ông Mười "giặt ủi", anh Thọ con
bà bán cháo chiều, tối trong hẻm. Hai chị em "tây lai" Pauline, Cécile,
những nàng "công chúa" kín cổng cao tường không có nhóc tì nào dám tới
gần, vì hai con bẹc giê đáng ghét luôn ào ra sủa ào ào, nhức tai, mỗi
khi có ai đến bên hàng rào.
Gia
đình chú Sinh và em gái ông, cô Hoa, một bông hồng Trương Vương đầu
thập niên 60. Ông bà Tố "di cư", gia đình cô Tư má thằng Hiếu, nhóc tì
đầu tiên trong xóm qua đời năm 1961 vì sốt xuất huyết. Hai chị em Hương,
Huyền, con ông bà Hà làm nghề đóng guốc,
nhà
đối diện với tiệm giặt ủi.
Ông bà chủ tiệm ảnh , nghe nói từng có tiệm
hình tại Hà Nội
(không nhớ tên hiệu).
Ông bà Thái, chủ lò chả lụa kế bên tiệm giặt ủi của ông Mười. Ông bà chủ tiệm
tiệm tạp hóa
kiêm chỗ cho mướn
xe đạp
(năm đó, 1960, xe cho mướn tính 1 Đồng / 1 giờ). Ông chủ tiệm thuốc Bắc mang tên Nhân Hòa Đường
(bên kia đường Đỗ Thành Nhân), đối diện với tiệm tạp hóa .
Bà
chủ tiệm uốn tóc (không nhớ tên) ngay cuối đường Lê Quốc Hưng (nơi
Lê Văn Linh "nối dài" bắt đầu). Dì Năm, bà chủ tốt bụng có sạp báo đặt
kế bên tiệm uốn tóc, cạnh trụ đèn đường. Nơi mà sáng nào, 3 nhóc tì "trường
tây" cũng ra đó sớm, để vừa xin đọc ké những mẫu truyện bằng tranh có
tên Bé Ngôn, Bé Luận và Mai Sơn Tráng Sĩ, vừa chờ xe Lambretta của hai
người cha từ trong xóm chạy ra đón, chở đi học. Phước, Lợi! Hai bạn bây
giờ đang ở đâu? Đã ra sao?!
Ông
chủ tiệm giải khát kiêm đại lý Pepsi Cola tại đầu phố cũng tốt bụng
không kém. Ông luôn vui vẻ cho đám nhóc tha hồ lượm
nút khoén, hay đổi 10 cái chai không để lấy một chai Pepsi Cola miễn
phí mang về cho cả nhà uống. Thời đó Pepsi Cola mới ra mắt ở Sài Gòn nên
"cạnh tranh thương mại" kiểu như vậy.
Ngần ấy con người, cùng những sinh hoạt trong xóm là những "dấu ấn" tuổi thơ, là "di sản"
của
một đời người. Trong số những "Người Xưa", chắc chắn rất nhiều vị đã trở thành "những người muôn năm cũ". Nhưng dù năm tháng có qua đi, cảnh cũ đã không còn, người xưa đã biệt dạng, ký ức về Xóm Chiếu vẫn đầy ắp hình ảnh và chưa mờ nhạt trong bộ nhớ.
Mái tóc đuôi gà và đường về sau giờ mẫu giáo tại Minh Tâm Học Đường, những tối "đu xà" trên các sạp gỗ trong chợ hay chơi trò "
Trốn/Tìm"
trong các vựa gỗ. Những lần mê cầu tuột trên công
viên Nhi Đồng, hay tắm sông tại Bến Sức đến mức, mới 5, 6 tuổi đầu mà
đã biết "cúp cua" để vui chơi. Những chiều tập xe, đạp lên, rồi thả xuống dốc
cầu Mống
không biết mệt và tất nhiên "đo đường'' cũng nhiều không đếm xuể. Những
đêm lén nhà, chui rào "coi hát cọp", bị rượt không biết bao nhiêu lần mà vẫn tánh nào tật
đó. Kỷ niệm xưa thật không thể nào quyên!
Xóm
Chiếu từng bị mang tiếng là một "xóm lành trên đất dữ"! ( Nói thật lòng
thì ngày xưa, tại vùng ngoại ô Sài Gòn, có nơi nào mà không..."dữ"!? ).
Nhưng Xóm Chiếu cũng hơn
một lần là niềm hãnh diện của cư dân quận 4, khi giữa năm 1961; ông
Mười, chủ tiệm giặt ủi ( không có bảng hiệu) nằm ở khoảng giữa đường Lê
Văn Linh nối dài và Đổ Thành Nhân, câu được một con cá Hô
nặng gần 100kg! Báo chí Sài Gòn lúc đó đổ xô tới chụp hình đăng tin rần
rần trên trang nhứt của các nhựt báo.
Xóm
Chiếu không có nhiều "công trình" hay cơ ngơi đáng kể, ngoài những gì
đã ghi trên đây. Cũng không có gì đặc biệt ngoài những nhộn nhịp của phố
chợ, ồn ào của xóm hẻm. Nhưng nét đặc thù của Xóm Chiếu nằm ngay trên
phong
thái và trong tính cách của cư dân địa phương. Họ sôi nổi và mau mắn
trong
thương mại, chân tình và xởi lởi trong ngôn từ cũng như cung cách
sống trong nhà và ngoài phố. Xóm Chiếu của ngày xưa là như vậy đó!
HUY VĂN ( HUỲNH VĂN CỦA )
(*)
Gọi là đường "Cá Hấp" vì đây là chỗ đặt vựa cá, cũng
là địa điểm trung gian,
lấy hàng từ chợ Cầu Ông Lãnh lên. Đến sau 1960, với lý do
đường
Bùi Quang
Chiêu nhỏ và chật, nên xe đò lớn chạy đường Sài Gòn- Nam Vang cũng
dời về bến Phan Văn Hùm để tiện đường giao thông ( do đường Phan Văn
Hùm nối thẳng vào Lê Văn Duyệt, qua Ngã 6 Sài Gòn ).
Autobus Renault ( "Xe đò lớn" )
Ciné LUX xưa ( ảnh trên ) và nay ( ảnh dưới )
bài rất hay
Trả lờiXóa