(Bản Đồ Tây Ninh thời Pháp 1863,lúc đó gọi là phủ Tây Ninh -ảnh Wikipedia )
Tây Ninh là một tỉnh ở Miền Đông Nam Bộ.Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh vương quốc Campuchia và là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Kể từ đầu năm 2014 thị xã Tây Ninh đã được chính phủ công nhận là thành phố Tây Ninh, đây là niềm vui lớn của người dân địa phương.
Điểm
qua dân ca các dân tộc ở Tây Ninh thì chủ yếu ta thấy cơ bản có ba
nguồn: Dân ca Chăm, dân ca Tà Mun và dân ca Khmer. Dân ca Chăm và Tà
Mun, phần lớn là những bài hát tự sự, thích hợp lối hát một mình, do đó
các bài dân ca cũng dễ bị mai một đi nếu nghệ nhân hát dân ca qua đời mà
không có truyền nhân,người kế thừa.. Dân ca Khmer chủ yếu là song ca
nam nữ có tính chất giao duyên.Và nếu người Chăm, người Tà Mun quen hát
không nhạc đệm thì người Khmer lại thường hát với dàn nhạc đệm, có kết
hợp múa.
Dân ca
Khmer hầu hết là các bài Rom Vuông ( Lâm Thôn - múa đôi hoặc múa vòng
tròn) Vì thế, các bài dân ca Khmer dễ lưu giữ hơn, do khi diễn xướng có
nhiều người cùng tham gia nên được nhiều người cùng nhớ.
Chúng ta biết Lý
là những khúc hát bình dân, thịnh hành của dân tộc Việt, thể hiện sâu
sát mọi đề tài, mọi trạng thái tình cảm, ước mơ của quần chúng, mọi hiện
tượng trong cuộc sống , đặc thù của hát lý là hát bắt nhịp, giọng cao giọng thấp, lặp đi lặp lại.… . Lý cùng với các làn điệu khác như hò, cò lả, nam ai, nam bình, hát xoan, hát xẩm, hát ru,... tạo những nét độc đáo của dân ca Việt Nam. Điệu lý đặc biệt phát triển ở Trung Bộ và Nam Bộ.
Ngoài ra ở Tây Ninh còn có điệu hò Huê Tình,hát ru,vè...Cho đến nay,
qua nhiều công trình nghiên cứu, sưu tầm thì dân ca Tây Ninh hiện còn
lưu giữ được là 419 bài. Trong đó, dân ca tộc Việt: 282 bài, dân ca tộc
người thiểu số (Khmer, Chăm và nhóm người Tà Mun): 137 bài,về lý có
khoảng 144 bài. Hầu hết các điệu lý đều lấy từ nguồn ca dao phong phú
vô tận để hình thành . Ca dao Tây Ninh rất nhiều đề tài quen thuộc như
cảnh vật,tình người,địa danh,những đặc sản tiêu biểu địa phương…..ta có
thể điểm qua một số câu ca dao tiêu biểu như :
+ Về danh lam thắng cảnh,đặc sản quê hương như:
-Tây Ninh danh thắng Núi Bà
Uy linh trời tạc một tòa nên thơ
-Trảng Bàng nổi tiếng xưa nay
Gia Huỳnh trồng cải,Bàu Mây lập vườn.
- Thanh Điền gạo trắng, nước trong
Nổi danh rau nhút cua đồng nấu chua
+ Về tâm tình,tình cảm đôi lứa:
- Em giã bàng đươn đệm cho siêng
Để anh lên Núi cầu duyên chúng mình
- Hỡi cô em gái đô thành
Có đi viếng Núi quê anh thì về
Núi Bà cây phủ mây che
Em đến em về đừng lạc lối nghe em
+ Về tinh thần chống quân xâm lược:
Bao giờ lúa trổ bông năn
Rừng Tân Biên hết lá ta mới hàng giặc Tây
- Ai ơi, về tới miền Đông
Ghé vào đất Trảng mà trông anh tài
Đánh Pháp Pháp đã chạy dài
Đánh Mỹ, Mỹ phải cút ngay xuống tàu.
- Ai về có biết Thanh Điền,
Đàn bà, con nít, thiếu niên anh hùng
Khào sát về cách đặt tên điệu lý Tây Ninh thì thông thường có ba cách đặt tên như sau :
1.Cách
thứ nhất:
Đặt tên từ một số từ đầu của câu hát như Lý bìm bịp .lý con
sáo,lý dây bầu,lý cùm nụm,lý cá rô mề,lý bên kia… ( lấy những từ đầu
tiên câu hát để đặt vd: Lý cùm nụm : Cùm nụm cùm niệu tay tý tay tiên đồng tiền chiếc đũa…)
2.
Cách thứ hai:
Đặt tên theo tiếng đệm lót hoặc tiếng láy đưa hơi như: lý
oa tu hỡi,lý tìm nàng,lý quê chồng…( vd : bài Lý quê chồng : rồi mới tới cái quê chồng là tới cái quê chồng của tui…)
3.
Cách thứ ba:
Đặt tên theo hành động,động tác hay nội dung câu chuyện
mang tính chất tự sự như các điệu lý: lý kéo đờn,lý con chuột,lý sáng
trăng,lý tình,lý đĩa xôi…( như bài Lý sáng trăng: Nhà ai có bán trăng
không? Dạ thưa rằng không có. Bóng vàng chi sáng nở trên thềm ?Bóng
nguyệt vàng,bóng nguyệt vàng ới bóng nguyệt vàng…)
Hát lý được phân biệt với hò vì
không gắn liền với một động tác lao động hay giao duyên. Lý cũng có
nhạc tính cố định hơn hò, câu hát đều đặn, trong khi hò có thể thêm câu
dài câu ngắn, tùy người hát. Điệu lý Tây Ninh có tự bao giờ chưa ai dám khẳng
định. Người tứ xứ về Tây Ninh mở đất, dựng quê, và những câu hát dân ca
cũng hình thành giống như bao nhiêu nét văn hoá riêng của mình. Không
ngạc nhiên khi có người nói: trong các làn điệu dân ca của Tây Ninh có
cả bóng dáng của những câu ca của cả ba miền đất nước. Nhưng những năm
tháng mở đất ở Tây Ninh, người Tây Ninh cũng có những cách thể hiện nỗi
lòng mình qua những làm điệu dân ca của riêng xứ sở Tây Ninh. Các
điệu lý Tây Ninh cũng mới được phát hiện và kí âm sau nầy không thể so
sánh với các điệu lý nổi tiếng ăn sâu vào tâm khảm người nghe như : Lý
cái mơn,lý kéo chài,lý cây đa,lý con sáo,lý mười thương,lý chiều
chiều…nhưng lý Tây Ninh vẫn có những đặc thù riêng. Như đã nói trên,sau nhiều năm sưu tầm và nghiên cứu, các nhà sưu tập đã tìm được khoảng 144 bài lý nhưng do thời gian hạn hẹp trong tham luận nầy chúng tôi chỉ đưa ra một vài điệu lý tiêu biểu cho cho quý vị tham khảo
Trường hợp điển hình là những bài lý liên quan đến địa danh của miền đất Tây Ninh , nên không thể lẫn vào đâu được. Như bài "Lý quê chồng" Đấy là bài lý kể về quê chồng của cô gái quê miền đất Ngũ Long ở huyện Bến Cầu. Quê chồng ấy là miền đất các xã phía nam của huyện Hòa Thành. Ngày nay, trên những bến sông quê ven sông Vàm Cỏ Đông như Bến Đình.Ta có thể theo một chuyến đò máy sang sông, để qua Long Giang hay Long Vĩnh thăm lại một tuyến đường xuồng những cô dâu thời trước đã đi qua . Bài lý có những câu : “
Qua vàm Rạch Gốc/ tới cái hóc Miễu Bà Thủy Long/ ơ… /Qua luôn đất giồng
là giồng cái Ông Quan Cựu/ rồi mới tới cái quê chồng là tới cái quê
chồng của tui.?”
Trong bản "Lý tìm nàng" cũng nhờ có những địa danh mà có thể khẳng định ngay, nó sinh ra từ miền nào trên đất Tây Ninh
“ Qua Sân cu, ơ rường ơ/ mới tới miễu ông Tà/ ơ rường ơ/ lên đây rồi
mới gặp/ ơ rường ơ cửa nhà em ở Bàu Năng/ ơ rường ơ phải qua Ninh Hiệp/ ơ
rường ơ mới đặng gặp nàng, ơ rường ơ …”
Đây lại là tâm trạng của chàng trai trên đường tìm tới quê cô gái mà mình thầm yêu trộm nhớ . Sân Cu,miễu ông Tà là những địa danh ở Tây Ninh . Bây giờ đường xá đến Sân Cu đã mở mang tốt đẹp, nhưng những ai ở xứ này đều biết , ngày xưa đây giống như một ốc đảo hoang vu rừng rậm có nhiều thú dữ .
Bài Lý oa tu hỡi nói lên tâm trạng sâu lắng người con nhớ cha mẹ,một hình ảnh gia đình thân thương :
“Mặt mẹ hiền dịu ơ rường ơi oa tu hỡi mà nhớ quá mắt cha nhăn nhó ờ ơ…”
Tây Ninh cũng có điệu Lý bìm bịp: tiết tấu chậm như lời than van trách móc ai đó như là người phụ nữ sang ngang để lại đàn con thơ dại
“Bìm bịp kêu rõ
quá à ôi, dõi sao lấy chồng bỏ trẻ bên sông…thương cho tròn cho con bìm
bịp kêu,thương cho tròn cho con bìm bịp kêu,thương cho tròn cho con bìm
bịp kêu…”
Bài của Tây Ninh về giai điệu tiết tấu ca từ có khác với điệu lý bìm bịp thông dụng:
Chiều Chiều ra đứng bờ sông nghe bìm bịp kêu,
Sao thương ai nức nỡ trong lòng,
Để con đò chiều vỗ bến tình liêu,
Mà gời đây nước trôi qua cầu,
Em bước theo chồng xa rời tình anh,
Xa mái tranh nghèo xa hàng dừa xanh.
Và chúng ta hãy nghe một bài Lý ngựa ô của Tây Ninh tiết tấu sôi động,rất vui tươi ,dí dỏm:
“Ngựa ô anh không
thắng không thắng cái lá kiệu vàng ruông xã rường ơi…anh đeo khớp bạc
lục lạc tòng teng anh giậm búp sen dây cương dậm thắng tình ông tang
tính tính ông tang tình.Đó mà ham vui đây mà thua con cá bóng kềm nó
lội ra khơi …. ” ( bài nầy có nét biến tấu so điệu Lý ngựa ô thịnh
hành,lại có nét dí dỏm thêm hình tượng con cá bóng kiềm thay vì bài Lý
ngựa ô truyền thống thì hình ảnh con ngựa đủ bộ mã đẹp đẽ khởi sắc, tâm
trạng náo nức để anh đưa nàng về dinh thì đây chỉ là anh chàng cưỡi ngựa
ham vui mà thôi, đó là sự sáng tạo tưởng tượng của giới bình dân mang
rõ nét đặc thù Nam Bộ)
Chúng ta có thể nghe thêm bài Lý dây bầu với giai điệu khá mượt mà tươi vui mạch lạc… dựa vào hình tượng dây bầu mà nói đến tình yêu lứa đôi :
“Bầu lên dây bầu
mới tượng hình chờ cái dây tang tình nở nhụy ơi rường ơi..là tang ý a
tang tình đôi mà xứng đôi, đôi mà xứng đôi…”
Bài Lý bên kia
của vùng Trảng Bàng thì mang tính tự sự với giọng hố khoan nói lên tâm
tình người phụ nữ có chồng đi học ở xứ đô thành là SaiGon : “ Ngó qua
bên chợ thì thôi hố khoan Bên nầy chợ ơi Bàng Trảng Bàng,bên nầy chợ ơi
Bàng Trảng Bàng.Chồng tôi đi học thì thôi hố khoan,đi thì đi học ở Gòn
Sài Gòn,đi thì đi học ở Gòn Sài Gòn….”
….”
Bài Lý cùm nụm như một khúc đồng dao vui tươi,một trò chơi tay tí tay tiên của trẻ thơ ngày xưa: “ Cùm
nụm cùm niệu tay tí tay tiên đồng tiền chiếc đũa,hột lúa ba bông í…. ẹ…
nè rớt… lượm (nè) Tay tí (ớ) tay cùm nụm tay tí ( ớ) tay cùm nụm….”.
Và bài Lý bông đậu giai điệu rất sảng khoái vui tươi, thể hiện một câu đố bình dân trong sinh hoạt hằng ngày của người dân lao động :
“Cái cây xanh xanh/ cái lá xanh xanh/ thơm bông
trên nhành/ trái tròn trong đất/ ớ ơ ờ ơ…./ mà bông vàng rực/ nó đậu
trên nhành/ là bậu đố anh,/là bậu đố anh/…..” ( bài nầy vô đầu hơi mang âm hưởng tiết tấu dân ca Nam bộ bài Con chim manh manh : “ Con
chim manh manh/ nó đậu cành chanh/ tôi vác miểng sành/ tôi liệng nó
chết giẫy/ tôi làm bảy mâm/,tôi đem cho ông một mâm/,tôi đem cho bà một
dĩa/….”.)
Nhìn
chung, hòa trong dòng chảy dân ca Nam Bộ thì các điệu lý Tây Ninh giai
điệu, tiết tấu, khúc thức khá đơn giản dễ ca, dễ hát,lời lẽ bình dân,
chân tình và vui tươi ,một số bài mang tính chất dí dỏm đó cũng là nét
đặc thù của phong cách Nam Bộ
Phần
nhiều trong các bài dân ca của Tây Ninh đã sưu tầm được trĩu nặng tâm
trạng hay gửi gắm tình yêu đối lứa, tình người trong lao động. Những nét
riêng chỉ có thể nhận ra qua cách sử dụng từ ngữ có lúc còn thô mộc,
đôi khi cũng trau chuốt đẹp lời đầy ý vị. Nhưng tất cả đều là những ngôn
ngữ xuất xứ từ một nền lao động nông nghiệp, chân chất, thiệt thà như củ khoai, hạt lúa quê nhà.
Đúng
như câu tục ngữ dân gian từng nói: “ Nam lý, Bắc thơ, Huế hò ”, một
thời hát lý từng được mọi người coi như là một thể loại dân ca nổi trội
ở miền Nam. Hát lý có sức cuốn hút rất mãnh liệt, đến mức dân gian đã
truyền lại câu nầy :
Con cua quậy ở dưới hang,
Nó nghe giọng lý kềnh càng bò lên!
(Lý con cua quầy)
Rõ
ràng dân ca Nam Bộ không chỉ đã kế thừa cái vốn văn hóa cổ truyền có
cội nguồn từ miền Bắc mà còn phát triển mạnh mẽ, làm tôn vinh cái vốn
chung của dân tộc.
Trước
sự phát triển ào ạt của dòng nhạc thị trường hiện nay và tình hình ngày
càng mất dần đi lớp nghệ nhân lớn tuổi - có nguy cơ làm đứt mạch chảy
từ xa xưa của dòng dân ca dân tộc , việc sưu tầm và lưu giữ, bảo vệ
nguồn tài sản tinh thần quý giá nầy nói chung và những điệu lý Tây Ninh
nói riêng là vấn đề cấp thiết đáng được quan tâm. Qua hội thảo,chúng tôi
hy vọng trong thời gian sắp tới sẽ có nhiều bài hát mang âm hưởng điệu
lý Tây Ninh lan tỏa đi khắp nơi do các nhạc sỹ sáng tác và tạo nên phong
phú cho nền văn hóa dân gian miền Đông Nam Bộ.
NS Nguyễn Quốc Đông