Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2015

Ý NGHĨA TÊN GỌI CÁC THÁNG CỦA DƯƠNG LỊCH



        
       Tết Dương lịch khởi đầu từ thời kỳ Cổ La Mã chỉ gồm có 10 tháng: Martius (March), Aprilis (April), Maius (May), Janius (June), Quintilis (July), Sextilis (August), September (September), October (October) và December (December). Có lẽ có hai tháng không có tên gọi vào mùa đông xảy ra không có nguồn thu lợi về những vụ mùa nông nghiệp. Do đó, một năm khởi đầu bằng tháng Martius (March).
       Vào năm 700 BC, vua thứ hai của Đế chế La Mã là Numa Pompilius, đã thêm hai tháng Januarius (January) và Februarius (Februay) và thêm số ngày vào một số tháng để lấy con số hên. Lịch Tây lúc đó tên gọi là Intercalaris.
       Sau đó, vào năm 46 BC (TCN), Julius Caesar sửa đổi Lịch Tây lại thành tên gọi Julian calendar và bỏ tên gọi Intercalaris.    
JANUARY (Tháng Giêng): 
Người La Mã cổ đại dường như có ý đặt tên các vị thần cho mọi thứ, cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu biết rằng họ có một vị thần gác cửa tên là Janus; vị thần này có hai mặt để có thể cùng lúc canh gác hai mặt nghịch chiều nhau của một lối ra vào. Vì thế, lễ kỷ niệm vị thần này diễn ra vào đầu năm, khi người ta nhìn lại năm cũ và hướng về năm mới. Do vậy, tên vị thần này gắn với tháng đầu tiên trong năm, trong tiếng La tinh, “tháng Giêng” là Januarius mensis (“tháng của Janus”). Cụm từ này du nhập vào tiếng Anh dưới dạng Genever vào khoảng trước thế kỷ 14. Đến khoảng năm 1391, danh từ tiếng Anh để chỉ tháng Giêng là Januarie. Tình cờ Janus cũng là nguồn gốc của từ janitor (với nghĩa ban đầu là “người gác cửa”). January theo tiếng Anh còn Januarius theo tiếng La tinh. Theo thần thoại La Mã cổ đại thì Janus là vị thần của thời gian. Tháng 1 là tháng đầu tiên của một năm mới dương lịch, nên nó được mang tên vị thần thời gian. Vị thần thời gian phản ánh cả quá khứ lẫn tương lai. Lúc đầu tháng Giêng Tây có 29 ngày, đến khi thay đổi tên Jalius thì có 31 ngày cho đến nay.
FEBRUARY (Tháng Hai): 
 Tháng của thần Februa gọi là tháng Foebruarius mensis chỉ có 28 ngày. Lúc đầu chỉ có 23 hay 24 ngày nhằm chỉ vụ mùa nông nghiệp thứ nhì, sau cứ 4 năm đổi thành 29 ngày. Tên gọi của tháng February có lẽ bắt nguồn từ Sabine.
       Du nhập vào tiếng Anh trong thế kỷ 13, xuất phát từ từ tiếng Pháp cổ là feverier (bản thân từ này có gốc từ tiếng La tinh là februarius). Danh từ này được tiếng La tinh vay mượn từ gốc februum của người Sabine, một dân tộc cổ của Ý. Người La Mã dùng từ februa để chỉ lễ rửa tội tổ chức vào giữa tháng 2 hàng năm. Dạng từ tiếng Anh vào đầu thế kỷ 13 là feoverrer, và đến năm 1225 nó trở thành feoverel. Vào khoảng năm 1373, tiếng Anh hiệu chỉnh từ này cho giống lối chính tả La tinh hơn, và thế là biến thành februare. Dần dà theo thời gian, những biến đổi về cách phát âm và chính tả đã đưa đến dạng từ hiện nay là February.
        Theo tiếng Anh tháng 2 là February còn tiếng La tinh là Februarius có nghĩa là thanh trừ. Trong phong tục của La mã thì thường thường các phạm nhân đều bị hành quyết vào tháng 2 nên người ta lấy luôn ngôn từ này để đặt cho tháng. Ngoài ngôn từ này còn có hàm ý nhắc loài người hãy sống lương thiện hơn và nên tránh mọi tội lỗi. Đây là tháng chết chóc nên số ngày của nó chỉ có 28 ngày ít hơn so với các tháng khác.
MARCH (Tháng Ba): 
Vị thần chiến tranh có tên tiếng La tinh là Mars, là gốc gác của danh từ chỉ tháng Ba trong tiếng Anh (March). Danh từ này xuất phát từ dạng tiếng Pháp cổ là marz (bản thân gốc này lấy từ tiếng La tinh Martius mensis, nghĩa là “tháng của Mars”. Nó du nhập vào tiếng Anh vào khoảng đầu thế kỷ 13. Trong thần thoại La Mã cổ đại thì Mars là vị thần của chiến tranh. Mars cũng được xem là cha của Ro – myl và Rem. Theo truyền thuyết đó là hai người đã xây dựng nên thành phố Rim cổ đại (nay gọi là Roma).
APRIL (Tháng Tư): 
Tháng Tư Tây (April) từ chữ Latin Aprilis, Hy Lạp là Aphro lúc đầu có 29 ngày, sau đó đến thời Julius thì trở thành 30 ngày.
       Là tháng đầu xuân hoa nở, có gốc là động từ apere trong tiếng La tinh (= to open). Tháng Tư trong tiếng La tinh là Aprilis, và biến thành Avrill trong tiếng Pháp cổ. Trong thế kỷ 13, từ tiếng Anh là Averil, nhưng đến khoảng năm 1375, tiếng Anh vay mượn lại dạng từ có vẻ La tinh hơn: đó là April. Ở một số nước, tháng Tư được xem là tháng đầu tiên trong năm, và truyền thống “ngày cá tháng Tư” (April Fools’ Day) là di sản của những lễ hội ăn mừng năm mới. theo tiếng Anh ; Aprilis LA tinh. Trong một năm chu kỳ thời tiết (năm hồi quy) thì đây là thời kỳ mà cỏ cây hoa lá đâm tròi nảy lộc. Theo tiếng La tinh danh từ April này có nghã là nảy mầm nên người ta đã lấy từ đó đặt tên cho tháng 4. Tên tháng này đã được nêu lên đặc điểm của thời điểm theo chu kỳ thời tiết.
MAY (Tháng Năm):  
May (tiếng Anh), Maius (La tinh ) là thắng Năm. Có thể theo thần thoại nước Ý, tháng 5 này được đặt theo tên của thần đất. Còn theo thần thoại khác thì có thể gọi là thần phồn vinh. Tháng Năm (May) là tháng của nữ thần La Mã Maia. có nghĩa là Tuyệt vời để chỉ Nàng tiên Italic, con gái của Faunus, và là vợ của Vulcan. Cái tên Maia có thể có cùng nguồn gốc với từ La tinh magnus (= “large”), có thể có nghĩa là “tăng trưởng/lớn lên”. Từ La tinh để chỉ tháng 5 là Maius. Từ May du nhập vào tiếng Anh trong thế kỷ 12, từ có gốc là từ Mai trong tiếng Pháp cổ. May luôn có 31 ngày.
JUNE (Tháng Sáu): 
 Du nhập vào tiếng Anh lần đầu trong thế kỷ 11 dưới dạng Junius, June được vay mượn từ gốc La tinh Junius, một biến thể của Junonius (từ mà người La Mã dùng để chỉ tháng Sáu), theo tên của Juno, nữ thần đại diện cho phụ nữ và hôn nhân. Tháng Sáu là tháng của Juno theo Latin, lúc đầu có 30 ngày, đến thời Luma còn 29 ngày, cuối cùng theo Julius trở lại 30 ngày.
JULY (Tháng Bảy): July đơn giản chỉ là đặt theo tên của Gaius Julius Caesar, vị Hoàng đế La Mã sinh ra trong tháng thứ bảy của năm năm 46 trước công nguyên, ông đã có công rất lớn trong việc cải cách dương lịch. Tuy lấy tên mình đặt cho một tháng trong năm, Caesar cũng đã có công lớn trong việc cải cách lịch La Mã.
       Ngoài ra, Caesar còn tự phong mình là một vị thần, và dựng nhiều đền thờ cho chính mình. Một khi đã có tiền lệ như thế, nếu các vị vua khác đều hùa nhau lấy tên mình đặt cho một tháng trong năm, thì chắc hẳn sẽ loạn cả lên (cũng may một năm chỉ có chừng đó tháng). Nhưng chí ít cũng có một người khác bắt chước như thế. July là tiếng Anh còn Julius là tiếng La tinh.
AUGUST (Tháng Tám): Augustus Caesar, cháu nuôi của Julius, lấy tên mình đặt cho tháng thứ tám (August). Cũng như Julius, Augustus tự phong mình là một vị thần, nhưng ông chỉ yêu cầu thần dân của các nước chư hầu thờ phượng ông, còn dân La Mã được miễn. Những ai có thú làm vườn có lẽ cũng nên biết rằng từ trong tiếng Anh cổ để chỉ tháng Tám là Weodmonath (“tháng của cỏ dại”). Do Julius và Augustus đưa tên riêng của mình vào lịch, những tháng sau đó phải lùi vài bước. August (tiếng Anh); Augustur (La mã) . Tháng này được đặt theo tên vị Hoàng đế La mã Augus. Ông có công sữa sai xót trong việc ban hành lịch chủ tế lúc bấy giờ. Để kỷ niệm và tưởng nhở ông người ta không chỉ đặt tên mà còn thêm một ngày trong tháng này (bù cho tháng 2) và có 31 ngày.
SEPTEMBER (Tháng Chín): 
September (từ gốc La tinh septem, nghĩa là “bảy”) trở thành tháng thứ 9, tháng này được gọi theo nghĩa từ của tiếng la tinh septem-số 7. Trong nhà nước La Mã cổ đại thì đây là tháng thứ 7 đầu tiên của một năm lịch.
OCTOBER (Tháng 10): October, theo Latin là october mensis "eighth month", (từ gốc La tinh octo, nghĩa là “tám”) trở thành tháng thứ 10. Tháng này đại diện cho sự no đủ, hạnh phúc.  Tháng 10 luôn luôn có 31 ngày.
NOVEMBER (Tháng 11): November (từ gốc La tinh novem, nghĩa là “chín”) trở thành tháng thứ 11.
Lúc đầu có 30 ngày, sau lên 29 thời Numa và cuối cùng đến thời Julius thì trở thành 30 ngày.  
DECEMBER (Tháng 12): December (từ gốc La tinh decem, nghĩa là “mười”) trở thành tháng thứ 12.
        Trong sách không nói nhiều về tháng này nhưng chúng tôi nghĩ hai tháng này (11 và 12) là đại diện cho sự mới mẻ, đạt được những kết quả trước đó và những người sinh vào tháng này là những người mới cũng như tháng vậy. Lúc đầu, December có 30 ngày, đến thời Numa có 29 ngày, và đến Julius thì tăng lên 31 ngày dài cho phù hợp số tháng trong năm.
Hồ Xưa sưu tầm______________________________________________________

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...