Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Tỉnh Lộ 7B Mỹ Thạnh Tuy Hòa - Tháng Ba Con Đường Máu (Rồi Cũng Lảng Quên - Thuyên Huy


Chuyện kể lại những ngày bỏ Kontum đi giữa tháng 3/1975 trên liên tỉnh lộ 7B
Tôi và đám bạn cùng chỗ làm ở Kontum vừa xuống
tới Pleiku trời nhá nhem tối, thì dưới này, quân đoàn
2, theo lệnh tướng Phú, đã rút khỏi cao nguyên từ
giữa trưa ngày 15 tháng 3, và cho tới hôm nay, 17
tháng 3, đoàn quân này có lẽ đã đi khá xa rồi, bộ tư

lệnh đèn đuốc còn đó nhưng cổng sắt mở toang, bộ

chỉ huy cảnh sát vùng 2, bên cạnh khách sạn Thanh

Lịch quen cũng không khác gì, giấy tờ hồ sơ nằm tứ

tung trong sân từng đống, tất cả đều không một bóng

người, dân chúng ở đây, già trẻ lớn bé, nhốn nháo

hổn loạn, chạy lên chạy xuống, ơi ới hò hét gọi nhau,

chất dọn bất cứ cái gì họ có, tủ giường chiếu gối,

quần áo dép giày, nồi niêu son chảo lên đủ mọi loại

xe, xe cam nhông, xe lam, xa ba bánh, xe Honda và cả

xe đạp, trước khi lôi kéo nhau, lên ngồi chật cứng, lúc

lơ lúc lắc trên những đống đồ cao, xe nào xong,

không ai chờ ai, lẳng lặng nổ máy, nối đuôi nhau màđi

Ngồi trên xe, chạy một vòng, ngược đoàn xe, đoàn
người gánh gồng đi bộ, từ tòa hành chánh, qua

đường Hoàng Diệu, ngang rạp chiếu bóng Diệp Kính,

xuống cổng phi trường Cù Hanh rồi bọn tôi quay trở

lại cư xá tỉnh, nơi đám công chức của Pleiku và

Kontum đang tụ họp, ngóng ngóng chờ chờ ở đó,

nhìn cảnh vật, thê thảm như thế này sao trời, hai bên

phố, tiệm quán cái cửa đóng kín, cái mở toang, trên

đường súng ống, áo lính giày trận, nón sắt nằm ngổn

ngang, la liệt, cái này đè lên cái kia phủ một màu bụi

đỏ, dưới ánh đèn điện vàng vỏ lạnh lùng giữa màn

sương đầu đêm vừa xuống, bọn tôi nhìn nhau, không

biết nói gì hơn, lắc đầu. Trở lại cư xá tỉnh, không xa

tòa hành chánh bao nhiêu, đám công chức các ty sở

Kontum, Pleiku và gia đình vợ con nhốn nháo, lo sợ ra

mặt, cứ lần quầng bên trong hàng rào, bàn ra tán

vào, đoán này đoán nọ, chẳng ai biết chuyện gì sẽ xảy

ra, cứ như vậy mà chờ chờ ngóng ngóng cho tới giữa

khuya, trong lúc đó, dân chúng Pleiku lần lượt tiếp

tục ra đi, cuối cùng, không ai bảo ai, mạnh ai nấy lo,

không có lời từ giã cũng như hẹn gặp lại, mọi người

lẳng lặng từng xe một rời đó, cũng như họ, giữa màn

đêm âm u, một màu chướng khí, tôi cùng đám bạn

Kontum lên xe, chiếc xe Ford loại cứu thương, nhập

theo đoàn người di tản rời khỏi thị xã Pleiku quá

khuya đêm đó, xem như Kontum và Pleiku đã bỏ

ngỏ, không kèn không trống, không văn thư không

lệnh lạc vào đầu đêm ngày chủ nhật 17 tháng 3 năm1975.

Đoàn người di tản, đi xe đi bộ, lính có dân có, chắc
cũng trên cả chục ngàn, cứ lầm lũi mà đi, đêm không

nghe tiếng súng. Qua một đêm chịu đựng cái lạnh của

núi rừng cao nguyên, rạng sáng, tới ngã ba cách thị xã

Pleiku về hướng nam độ 40 cây số, ngã ba Mỹ Thạnh,

đoàn người xuôi theo hướng liên tỉnh lộ 7B, con

đường nối quốc lộ 14 ở Pleiku đi Phú Yên, dài chừng

250 cây số, đã không dùng, bỏ hoang từ chục năm

nay, không xe cộ không bộ hành, núi rừng hiểm trở

chạy ngang qua Phú Bổn, theo dấu giòng người đi

trước mấy ngày, tiếp tục đi, vì Ban Mê Thuộc mất rồi,

Bắc quân chiếm Phước An, Phú Nhơn từ mấy ngàytrước.

Từ Pleiku xuống tới ngã ba Mỹ Thạnh, suốt một

ngày đêm, đường không có gì trở ngại, khỏe thì đi,

mệt thì nghỉ rồi cứ thế mà đi tiếp. Bắt đầu vào liên

tỉnh lộ 7B, đường chật cứng, nhỏ hẹp, hai bên là rừng

mây, chẳng chịt, đất đá chen nhau lởm chởm

nắng như thiêu như đốt, đêm lạnh rùng mình, người

lớn thì còn chịu được, tội nghiệp con nít, tội tình gì

mà phải như vầy. Vẫn không có tiếng súng, đoàn

người và xe cộ chậm chạp, lừ đừ qua đèo Chu Sê,

dưới bóng trăng lên pha lẫn ánh đèn của hàng mấy

chục chiếc xe GMC, xe Dodge cùng một số xe hơi dân

sự chở đầy người nối đuôi nhau, từ giữa đoàn, chỗ xe

tôi, tính từ đầu, đoàn người dài hơn mấy cây số, đó là

chưa kể mấy ngàn người ở phía sau, vào tới Hậu Bổn

cũng phải mấy chục cây số nữa, tới sáng chưa chắc đã

xong. Sáng hôm sau, nắng chang chang, đoàn người

ngang Phú Thiện, không người hoang vắng, lác đác

đâu đó hai ba người đàn ông Thượng, không biết sắc

tộc nào, áo quần đầy bụi, chậm chạp, ung dung, đẩy

xe đạp, trên chất đầy bao bố này bao bố kia, ngược

đoàn người di tản, về hướng buôn làng xa nào đó,

thằng bạn H ở Phú Thiện chắc cũng đã bỏ đi từ lâu.

Rồi chuyện gì xảy ra cũng xảy ra, qua cầu Phú Thiện

không lâu, sau đó xe hơi, xe Honda, xe GMC bắt đầu

lần lần phải bỏ nằm lại, máy móc không hư hao gì

nhưng không còn xăng đâu nữa mà chạy, xe Honda

giờ này cho không cũng chẳng ai thèm lấy, chủ nhân

quăng đại bên lề rừng, người bám người, bồng bế

nhau, may thì xin quá giang các xe nào còn chỗ nhét

lên được, không thì tay xách tay mang, dắt díu mà đi

tiếp, không đi nổi ngồi lại thở dốc, nhìn trời cao đất

rộng than trách cầu xin. Đói khát là chuyện dĩ nhiên,

không biết và cũng không thấy là người ta ăn uống ra

sao, với bọn tôi, trên xe nhờ mấy chục gói mì ăn liền,

ăn khô không nước và hai ba nãi chuối chín mang

theo từ Kontum, cho sáu miệng ăn giờ còn lại hai ba

gói, đi như vậy, mấy ngày trời, chắc vì vừa nóng lòng

vừa sợ, mà sợ thật, nếu không về tới ngoài đó, Tuy

Hòa, Nha Trang, bị kẹt lại vùng bị chiếm, số phận

cũng khó biết ngày sao sẽ ra sao nên khi đói thì chia

nhau bẽ từng bốc mà ngậm, nước uống nhờ vào bình

nước ni lông 20 lít trên xe, cũng hớp một hớp hai,

chớ không làm gì khác hơn.

Trong bóng đêm, người tiếp nối người, chật kín cả

con đường loang lở, xe cộ né tránh mà chạy, chạy

chậm hơn người, không ai buồn ngó. Qua lưng chừng

đèo không lâu, xe của bọn tôi cũng cùng chung số

phận, còn chút xăng đó nhưng cũng chỉ hai ba chục

cây số nữa là cùng, không còn nhớt máy, máy nóng

quá, tưởng như xe sắp nổ tung, thôi đành, chúng tôi

quyết định cho xe chạy ủi vào một khoảnh đất nhỏ,

bên bờ cái hố, bỏ lại đó rồi ai nấy gom góp những gì

mình cần, không còn cái gì ăn nữa để chia nhau,

ngoại trừ chút nước trong bình ni lông, sớt ra, đổ vào

mấy cái bình bi – đông lính mà người nào cũng thủ

sẳn trong cái túi xách bên mình, để chạy, hôm quân

Bắc việt tấn công vào tỉnh lỵ Kontum trước ngày Ban

Mê Thuộc mất, cũng may là còn đủ cho một người

một bình đầy chừng phân nửa nước. Bọn tôi tự động

chia tay, hai ba người đi chung, để còn có thể giúp

nhau cái gì hay cái đó, lúc nào hay lúc đó, bắt tay,

chúc may mắn, hẹn gặp lại ngoài kia, ngoài kia đó

nhưng không biết ở đâu, cứ hẹn đại, rồi nhập vào

giòng người rồng rắn, cứ vậy mà nối nhau đi không

khác gì một giòng sông chảy chậm, cùng với tôi có B

và N, ngó qua ngó lại, giữa trời mờ mờ, nhóm bạn

khác đã mất hút trong giòng người từ lâu.

Xế trưa, phía đầu đoàn người tới đâu đó, chỗ ngã

rẽ con đường vào thành phố Hậu Bổn, từ xa vẫn còn

thấy ánh đèn sáng trong đó nhưng mọi thứ đều yên

lặng, một cái yên lặng đáng sợ, khi bọn tôi lên tới,

người và người như một đoàn kiến rừng, không thấy

đất chỉ thấy người, đứng ngồi chật kín cả một khu

rộng hơn hai ba cái sân đá banh, đất thì khô cằn, nứt

nẻ, trời không một chút mưa, đi ngang qua chỗ có

mấy chiếc GMC nhà binh còn chạy được, đám lính bộ

binh của tiểu khu hay sư đoàn nào đó, súng quàng vai

thờ thẩn, vây quanh vợ con, miếng nước miếng cơm,

nhìn trời ngao ngán, ngó xuống ngó lên, có tiếng con

nít khóc kéo dài, đôi khi đứt quảng xa xa, trên này

dưới kia, hể cứ nghe ai đó phía đầu đoàn, nói đầu

đoàn chứ cũng phải xa cả cây số, vọng xuống hô hoán

đi được thì ai nấy, cả khối người rục rịch đứng dậy

ngóng nhìn, như những lần ở mấy đoạn đường trước,

rồi lại ngồi xuống chờ vì chưa thấy có gì nhúc nhích.

Ba thằng tôi chen lẩn vào bụi rậm, giữa rừng

người, dưới gốc cây lớn, cao và khô đét, mệt mỏi

nhưng cũng đành chịu, trời bắt đầu vào chiều, chung

quanh đếm không biết bao nhiêu là gia đình, người

lớn con nít nằm la nằm liệt, không muốn nhưng

thằng nào cũng thấy đói, lấy bịch gạo sấy, khẩu phần

hành quân của lính, may được một anh trong đám

lính trên cái xe jeep đầy bụi đỏ, bỏ lại cùng lúc vì hai

bánh xe xẹp lép, thương tình cho, khi họ vác ba lô đi,

ra chia mỗi người một nhúm nhỏ gọn trong lòng bàn

tay rồi ngậm để hy vọng có sức mà đi tiếp, quay qua

quay lại, chưa nuốt trọn, đạn đại pháo của Bắc quân
từ phía bên phía dãy đồi xa pháo tới từng chập, rãi

rác trên dưới đoàn người, rớt xuống nổ vang vọng,

khói bụi đất, cây cỏ văng tứ tung, người là người hổn

loạn, hoảng sợ lôi kéo nhau chạy tứ phía, té ngã nằm

chất nằm chồng lên nhau, mặt mài xanh hơn tàu lá.

Cũng như họ, mấy thằng tôi, mạnh người nào

ngưới nấy chạy tìm chỗ trốn, tôi nằm đại sát xuống

đất cầu trời, đồng không mông quạnh, chỗ đâu mà

tránh mà núp, số ai nấy chịu, một lúc sau, tiếng pháo

ngưng bặt, thay bằng tiếng khóc tiếng kêu la suốt

một quảng đường, đã có người chết, người bị thương

nhưng không biết nhiều hay ít, rũi mà chết thì làm

sao, chôn chỗ nào, ở đâu hay tức tưởi, đứt ruột bỏ lại

cho trời đất xứ người, nghĩ người xấu xố rồi nghĩ tới

mình, nếu như là tôi thì sao đây, tôi ngồi thở dốc,

rươm rướm rùng mình, hai thằng bạn lạc mất rồi,

đám kia cũng không biết giờ này tới đâu, nắng tắt,

hoàng hôn xuống dần một màu tím đen, phủ chụp

xuống đoàn người, đen như màu bia mộ đá, bọn tôi

không thấy nhau sau đợt pháo đó.

Trời tối vào đêm, vẫn còn nghe tiếng khóc nảo nuột,

xót xa kéo dài theo chiều gió đêm của rừng đầu hạ,

có tiếng gọi nhau từ phía trên vọng xuống, có tiếng
máy nổ của mấy chiếc xe GMC già còn lại, đoàn người

không ai bảo ai, đứng dậy, tay xách vai mang, một lần

nữa, tôi theo giòng người rời Hậu Bổn trong đêm,

trên đường đi qua, không giống như những đoạn

đường trước, lần này có người đi có người ở lại, ở lại

vật vả với người thân, xác chết và vết thương, có cái

không còn toàn vẹn, kêu than tuyệt vọng, người đi cứ

đi, vì cũng không biết phải làm gì cho người ở lại,

nhìn mà buồn ray rứt. Nhắm mắt ráng mà làm ngơ,

tôi nhẩm đếm mỗi lần đi ngang qua, dưới màn đêm

mờ mờ, chắc cũng không dưới cả trăm người vừa

chết vừa bị thương, trong đêm có tiếng đạn pháo nổ

từng chập phía trước, văng vẳng vừa đủ nghe xa xa,

không biết ở đâu nhưng chắc cũng đã có người kém

may chết nằm trơ trọi trên đường nữa.

Tới rạng sáng, thêm một số xe GMC nữa bỏ lại trên

đường qua đèo Tuna, cách Hậu Bổn chừng bốn năm

cây số, về hướng Tuy Hòa, qua khỏi thung lủng Cheo

Reo, hàng trăm xác người chết, già trẻ lớn bé nằm

dọc theo đường, ướt đẩm sương đêm, bên cạnh cả

hàng dài những chiếc xe GMC, Jeep, Dodge chen lẩn

xe dân sự, cháy nám đen, chắc là của quân và dân di

tản đợt đầu, đoàn người có số dừng lại nghỉ dọc theo
bên đường, tôi theo số khác tiếp tục cắm cuối đầu đi

tới, đi mà cứ ngóng ngóng, ngó trước ngó sau, mong

thấy đám bạn đâu đó, bịch gạo sấy gần cạn, cuộn lại

bỏ lọt tuốt trong cái túi áo ka ki, bụi trộn mồ hôi bám

đầy, một màu cháo lòng khét, cái bình bi – đông

nước, mang trên dây nịt cũng không khá gì hơn, còn

một phần tư hay hơn chút xíu, đoàn người lúc này

không còn san sát nối nhau mà rời xa từng cụm từng

cụm một, nói từng cụm chứ mỗi cụm cũng cả mấy

trăm, xuống tới chân đèo, sắp giữa trưa, nắng nóng

vẫn nóng, mặt trời vừa đứng bóng, đoàn người đi

đầu ngừng lại, thấp tha thấp thỏm, không đi cũng

không ở, tôi cùng một số ngưới lính bộ binh, áo quần

không còn màu gì ra màu gì nữa, chen lên phía trước,

phía bên kia cầu Le Bac thấy có nhiều xác người chết,

chắc là bị trúng đạn pháo của quân Bắc Việt, những

chập pháo mà đoàn người di tản đã nghe trong đêm

khi bắt đầu lên đèo giữa khuya.

Tôi và mấy người lính, không ai nói tiếng nào, bỏ đi

trước, nhìn lại, người gọi người lục đục theo sau, cây

cầu sắt rĩ sét có từ thời Pháp, lung lay chầm chậm

đưa qua đưa lại, tưởng chừng như không bao lâu

chắc sập mất nếu cứ theo đà này với số lượng người
đông hơn kiến, đúng như đã thấy, cả một đoạn

đường vài trăm thước, chừng cả trăm xác chết, đàn

ông đàn bà, có cả con nít, nằm đủ tư thế, trên lề

đường cũng như trong bui rậm, không thấy ai ở lại

bên cạnh, chắc cũng đành chịu đớn đau, khóc biết

làm sao mà đủ, nuốt lệ mà đi, cố nhớ chỗ này, nhớ

ngày này, may nếu còn sống mà làm tang làm giỗ, có

nhiều người, nhiều lắm, qua cầu rồi, chắc lâu rồi

không thấy nước, thân thể cũng thèm nó, cho nên

mặc cho nhóm người trước bỏ đi, họ nhảy ùn xuống

con rạch, nước chắc sâu cở tới bụng, đứng lên ngồi

xuống cho đả, chuyện gì rồi tính sao, từng tốp từng

cụm người đi phía sau lẳng lặng hờ hửng ngang qua,

cây cầu cũng lắc lư như từ lúc có người qua tới giờ.

Tới chiều tối, tới Phú Túc không ai dừng lại, phố xá

cũng không khác gì Phú Thiện, tan hoang, không

người, người đi cứ đi, trên đường gần tới cầu Cà Lúi,

trong bóng đêm mờ chạng vạng, xác người chết nằm

dọc theo, cả một đoạn đường dài, có cả xác con nít

chắc cũng khoảng trên dưới cả trăm, có mùi hôi,

không biết chết vì bị pháo của quân Bắc việt hay đạn

súng bắn, có lẽ nằm đó cũng mấy ngày, rồi cũng như

mấy lần trước, tôi và đoàn người, nín thinh, bùi ngùi
tránh qua mà đi, hy vọng không có người quen mình
trong đó nhưng xót xa không ít cho người chết bị bỏ
lại sau lưng.

Suốt đêm, có người đi người nghỉ lại, sau một

quảng đường lên dốc của ngọn đồi rừng cây thưa

thớt không cao lắm nhưng không là đèo như mấy cái

đèo ở đoạn phía sau đã đi qua, hai bên cỏ tranh cao

khỏi đầu người, nhìn xuống ai nấy cũng mừng ra mặt,

người này gọi người kia chỉ chỏ, trời cũng lấp lửng

rạng sáng, có chút mặt trời lên, xa xa dưới đó có nhà

có bóng dừa rải rác, có hai ba con đường đất quanh

co và dăm ba đám ruộng, đống rơm, tôi cũng mừng

không ít, dù sao vẫn còn có chút gì đó để bám víu mà

hy vọng sống còn, người ta ai nấy xem ra quên hết

mệt mỏi, đi nhanh hơn, vậy mà gần tới xế chiều,

đoàn người trong đó có tôi mới tới dưới đầu làng,

chắc là xã ấp nào đây nhưng không thấy bóng người.

Nhà cửa nhiều hơn, cái tranh cái tôn, cách nhau

không xa, dọc theo con đường đất rộng, lác đác

ruộng từng đám nằm phía trước phía sau, đất cày và

khô cằn rạ, ngang qua một cái nhà tranh có cái lu

đựng nước lớn ở góc hiên trước, tôi lấy bình bi –

đông mang bên hông, giờ còn chừng không hơn một
lóng tay, ấn vào bên trong lu cho nước vào đầy, thở
ra nhẹ nhỏm.

Đi tới gần hơn, băng qua mấy đám ruộng, trước

mặt, đã có cả ngàn người ở đó, chật cứng trên một

khoảng đất rộng, xem ra giống như cái sân đá banh,

đi loanh quanh dòm ngó, trời bắt đầu chập choạng

tối, lác đác chỗ này chỗ kia, gặp bốn năm anh lính

mình, chắc là nghĩa quân hay địa phương quân gì đó,

còn mang súng, cầm đèn pin, đi lên đi xuống, nhỏ to

với nhau, tôi tới làm quen, hỏi ra mới biết là mình

đang ở quận lỵ Cung Sơn, tỉnh Phú Yên, chỗ này

không xa khu chợ quận lắm, không thấy ai ở đó, chỉ

còn lưa thưa ánh đèn điện vàng lờ mờ trước mấy dãy

nhà tường, có lẽ là văn phòng hay trường học, ở đây

cũng có thằng bạn M nữa, nhưng chắc thân ai nấy

liệu rồi, không mong gì gặp được nhưng nếu có gặp ở

đây thì chẳng có gì khá hơn, cũng bỏ chạy thôi. Thân

hình thì ốm yếu, đói khát bao ngày qua, chưa chết

cũng là may, rã mệt, tôi lẩn vào một góc bờ đê đất

khô, ngã người nhìn trời, sờ trong túi áo, bịch gạo sấy

còn chừng nắm tay nhỏ, rờ qua rờ lại, có tiếng đại

pháo phía trời sau lưng vọng về, mơ mơ màng màng

nhìn qua nhìn lại, ngủ thiếp đi. Giựt mình tỉnh dậy,
dụi mắt ngó quanh, giữa trời lờ mờ sáng, người trên
sân vận động, từng nhóm từng nhóm đã lục tục kéo

nhau đi xa xa theo con đường đất về hướng bờ sông

Ba, cũng như họ, không chờ không đợi, tôi ngồi bật lẹ

dậy, bỏ Cung Sơn đi cùng với năm sáu tốp người lưa

thưa theo sau, bên khu chợ quận, trời ửng sáng,

không bóng người.

Chừng một hai giờ trưa đoàn người tới bờ sông Ba,

khúc sông này hẹp, nói hẹp chứ cũng khoảng hơn hai

trăm thước, mùa này mực nước cạn, tới ngang đầu

gối, người dầy đặc người, đám đi trước lội bừa đi

trong nước, đám sau, trong đó tôi cứ như vậy mà

theo qua sông, đoàn người ở Cung Sơn đêm qua đã

qua sông gần hết thì cũng vừa lúc mặt trời chập

choạng xuống, chưa về chiều hẳn, nắng có phần dịu

đi, trời lảng đảng vài cụm mây xám đen lớn nhưng

vẫn không có mưa, khựng lại một lúc sau khi qua

sông, người nối người tiếp tục đi, thấy người trước đi

người sau cũng đi, con sông chỉ còn là một vạch nhỏ,

khuất dần phía sau lưng. Ở đoạn này lại có thêm

người chết, vài chục xác nằm rãi rác gần sát trong ven

đường rừng, vì đạp trúng phải mìn do quân đội Đại

Hàn gài lại dẩy đầy khi họ đóng vùng này trước đây.

Đi như vậy cho tới độ chừng một hai giờ sáng,

đường không còn đất đá lồi lõm, không mây rừng
chằng chịt, dễ đi và thẳng tấp, đoàn người đã tới đầu
trên của đập Đồng Cam, khúc cuối của hương lộ 436,

dưới ánh trắng chênh chếch, người ta thấy nhiều

đám ruộng chạy dài một bên, còn bên này là một

dòng nước, không phải con rạch, giống như một con

kinh đào, xa hơn thấy có lưa thưa nhà, có ánh đèn lờ

mờ, không biết nghe được gì ở phía đầu đoàn người,

năm ba cô gái trẻ chạy len ngược về phía tôi, đám

người ở sau, mừng rỡ luôn miệng nói là đã sắp vào

Tuy Hòa rồi, thì ra ở đây đã có hàng ngàn người đi từ

mấy ngày trước, kẹt lại nghẹt cứng, cuối cùng người

tới trước người tới sau, nhập chung dồn cục ở đây,

thiên hạ chen lấn, kẻ đầu này kẻ đầu kia, tìm người

quen người thân, hỏi nhau câu mất câu còn.

Rạng sáng, lang thang lên trên phía đầu đoàn

người, thử xem tại sao họ lại không đi tiếp nữa, tôi

gặp lại B và N, ngồi ở một góc bìa bờ đập nước, cả ba

nhìn nhau muốn khóc, trên giòng nước rãi rác vài xác

người chết trôi xình lên bập bềnh, mặt trắng bệch,

chắc chết cũng đã lâu. Ba người, không ai hỏi ai

chuyện đi đứng ra sao sau khi lạc mất nhau ở Hậu

Bổn, còn sống là may là mừng rồi, đl lên tới phía trên,

ở đây có chiếc xe tăng M48, và chiếc xe Dodge có lính
mình còn mặc quân phục rằn ri, cả gia đình họ, hình
như là Lôi Hỗ, súng ống hẳn hoi, đậu nối nhau trên
đường, tôi không chắc lắm, con đường về hướng Tuy
Hòa lặng yên, một bên toàn là đồng cỏ lát hun hút

cao tới gối, lấp xấp nước chạy dài tận dãy đồi rừng

cây xa xa, bên này là những đám ruộng còi trơ gốc ra

mục khô, nứt nẽ đất, lác đác một hai ngôi nhà và mấy

đống rơm lớn, không thấy người, dọc theo cũng cùng

bên này, có chừng bốn năm ngọn đồi nhỏ, không cao

nhưng cây cối chằng chịt, rậm rạp. Đi gần lên chút

nữa, đứng gần bên chiếc xe tăng, trước mặt trên một

đoạn đường dài cách chỗ tôi bọn tôi đứng khoảng

một hai trăm thước, hai ba xác người lính chết nằm

vắt ngang trên chiếc xe jeep cháy nám đen, hàng

trăm xác khác, có cả con nít nằm vương vãi đủ tư thế,

đủ chỗ, trên đường, trên bờ ruộng, mùi hôi thúi vẫn

còn lẩn quẩn theo chiều gió sớm, may mà ở đây

không có đám kên kên, gật đầu chào anh lính ngồi

trên xe tăng, bọn tôi quay trở lại, chen đám đông rồi

lủi vào gốc mấy bụi chuối già sau hông một căn nhà

tranh, cửa đóng không có người tạm nghỉ, nghe B và

N kể lại chuyện xảy ra mà mắt tôi cay xé, cổ họng

nghèn nghẹn.
Trời sẩm tối đêm đó, đêm xảy ra thảm nạn, hai
ngày trước, gần ba trăm người, trong đó B, lúc đó B

và N chưa gặp lại nhau, ở đầu đoàn, có cả chiếc xe

jeep với nhiều người lính bộ binh, thấy đường vắng

yên và không có động tịnh gì, giống như những đoạn

đường cũ, hễ cứ thấy đi được thì cứ đi. Chiếc xe jeep

chầm chậm chạy trước, số người còn lại kéo nhau

theo sau, vừa qua khỏi cái đồi cây cối rậm rạp, gần

chỗ đoàn người đang ở khá xa, đại liên của quân Bắc

việt đóng chốt trên đó, hình như là đám quân tiền

trạm, bắn xối xả vào họ như mưa trong vòng mười

lăm hai chục phút, tiếng đạn rít rợn người tung tóe

trên đường, B còn may là một trong số những người

sau cùng của toán này, thụt lui lại nằm im chờ tiếng

súng ngưng bặt rồi bò sát bờ ruộng quay về, mặt mài

không còn chút máu, cũng có một số người, kẹt trong

khúc đường bị bắn, không trúng đạn, phải nằm dầm

mình bất động dưới mực nước lấp xấp, chờ im, mới

dám bò trở lại chỗ cũ, họ cho biết chắc những người

kia, hơn hai trăm đã chết hết rồi, chiếc xe jeep quẹo

qua, nằm vắt ngang phân nửa trên bờ đường, phân

nửa dưới ruộng, thì ra đoạn đường về Hiếu Xương

trước mặt dài chừng hơn mười cây số đã bị quân Bắc

việt đóng chốt trên mấy ngọn đồi.
Người ta hết đi xuống đi lên chờ, ba thằng tôi cũng
không biết làm gì hơn, một ngày nữa qua, mà chẳng
thấy đoàn người nhúc nhích, ngay cả những người

lính và chiếc xe tăng cũng dậm chân tại chỗ, B và N

còn được bịch gạo sấy mua lại từ một anh lính địa

phương quân ở Cung Sơn nên ba thằng tôi vẫn còn

năm ba hột cầm cự cái đói được. Sáng hôm sau, ngày

thứ hai từ khi đến đây, ba thằng lang thang lên chỗ

chiếc xe tăng M48, làm quen với mấy anh lính trên

đó, dò la tin tức, không ngờ gặp lại hai chị em người

Thái trắng H và L, thư ký ở chỗ H làm, có ai đó quen

trong toán lính nên đã nhập bọn, xem như là người

của gia đình họ, H và L cho bọn tôi thêm mấy bịch gạo

sấy nữa, qua hai cô, được biết là toán lính, dùng máy

truyền tin còn xài trên xe, liên lạc với chi khu Hiếu

Xương, ở đây nói một đại đội địa phương quân và

một số xe lội nước M113 đang trên đường tới đập

Đồng Cam, sẽ giải tỏa con lộ nay mai nhưng hai ngày

rồi không thấy gì cả, cũng buổi sáng đó sau khi quày

trở lại chỗ cũ không lâu, nắng bắt đầu lên cao, trời

nóng như mọi ngày qua, một chiếc oanh tạc cơ A 37,

không biết từ đâu bay về, vòng hai ba vòng trên bầu

trời rồi thả hai ba trái bom xuống ở phía xa tít nào đó,

khói lên thấy rõ, rồi bay đi, mất hút về phía chân trời,

người ta ai nấy chỉ chỏ vui mừng, cứ tưởng là mọi

chuyện suông sẻ nhưng chờ cho tới chiều, và cho tới

ngày về tới Hiếu Xương, không thấy bóng dáng chiếc

oanh tạc cơ trở lại, đêm xuống ba thằng nằm chen

với người ở một góc ruộng khô bên này đường, nhìn

trời cao mà “than thân trách phận”.

Sáng sớm hôm sau, người người nhốn nháo, chạy

lên chạy xuống, sắp xếp đồ đạc, nai nịt thứ này thứ

kia, hỏi ra họ nói bữa nay toán quân có xe tăng sẽ

đánh chốt mở đường về Hiếu Xương, không chờ nữa,

mọi người chuẩn bị, hễ nghe hô đi được là đi, cùng

lúc đó từ phía cuối đoàn, chừng năm sáu chục người

lính bộ binh mang súng đi lên, ngang qua nói chung

chung, lên phụ mấy anh ở trễn mở đường. Người ùn

ùn theo người, trong đó có bọn tôi, háo hức đổ xô đi

lên phía trên, gần chỗ đầu có toán quân, chừng hơn

một trăm nhưng không tới gần được, vì cách chỗ họ,

chừng hơn một hai trăm thước, ba bốn anh bộ binh

đứng chận ngang, ra dấu đứng lại, vừa lo sợ vừa

mừng, toán lính đủ binh chủng súng cầm tay, tiếng

lên đạn lách cách. Chiếc xe tăng M48 nổ máy, phần

trên tháp đại liên thấy một anh ngồi nhô đầu lên

không cao lắm, khói đen quyện một khoảng xa, chiếc
xe Dodge có gia đình họ nằm yên, bọn tôi cũng như
những người đầu đoàn ngồi thấp xuống, nín thở chờ,

nhìn về hướng ngọn đồi, phải nhìn nhận là có một cái

gì kỳ diệu khó nói trong lúc này, không ai là thuộc cấp

của ai nhưng toán lính chừng trăm người, tự chỉ huy

tự nghe nhau, theo một thứ kỹ luật bất thành văn
đáng phục.

Chiếc xe tăng M48 rục rịch quay hơi ngang rồi từ từ

cặp bên bờ ruộng khô chạy dọc theo đường vì sợ cán

xác người trên đường, họng cây súng đại bác chĩa về

hướng cái đồi rậm có quân Bắc việt đóng chốt từ mấy

ngày qua, lừ đừ quay qua quay lại, toán lính chia làm

hai, một nhóm theo sau xe, nhóm còn lại, lần theo bờ

đê, núp người thấp xuống, từng bước tiến về hướng

đồi, chưa bao xa thì súng đại liên của quân đóng chốt

bắn xuống xối xả từng tràng dài cộng với hai ba trái

B40 rớt nổ bên kia đám đồng cỏ lát, nước bùn văng

lên tung tóe, toán lính mình nằm rạp xuống, trời cũng

vừa sắp đứng bóng, nóng vẫn nóng, ba thằng tôi hốt

hoảng ra mặt quay lui lại, đoàn người hoảng sợ la hét

vang trời, một lần nữa nhốn nháo, xô nhau chạy

ngược về chỗ cũ, người khum người bò, chiếc xe tăng

cùng một lúc, khẩu đại liên trên tháp xe nhả đạn bắn
trả và quay họng súng đại bác bắn lên phá tung một
khoảng cây rừng chen lẫn đá, tiếng đại liên hai bên

vẫn còn nổ liên hồi, chiếc xe tăng bắn thêm trái thứ

nhì, cát bụi mù mịt, toán lính sau xe đã dàn ra, theo

chân toán đi trước, bò sát đất ruộng, dọc theo mấy

bờ đê, vừa bắn liên tục vừa tiến về hướng đồi.

Lúc này đoàn người đã thụt lại chừa một khoảng

trống dài trên đường, không ai bảo ai, run cầm cập,

chiếc xe tăng sau đó nằm yên một chỗ, họng súng đại

bác vẫn nhắm vào cái đồi, chừng gần tiếng đồng hồ

tiếng súng ngưng bặt, không thấy động tịnh gì hết, ba

thằng tôi tim đập thình thịch, ngóng lên ngóng xuống

chờ, không ai thấy và không biết là toán lính mình

đánh nhau như thế nào, chết sống ra sao, không bao

lâu, họ lần lượt quay trở lại đường từ phía đồi, lần

này họ đi thẳng, súng trên tay, người lái chiếc xe tăng

nhô đầu lên, nói với họ gì đó, rồi cho xe thụt lui lại,

nằm thẳng sát bên bờ lề đường, từ từ tiến chậm về

hướng Hiếu Xương, chiếc xe Dodge nổ máy, xuống

ruộng chạy theo dấu xích sắt xe tăng, hai ba người

lính từ khoảng trên la vọng xuống, đi được rồi, chỉ

nghe vậy thôi, đoàn người ùn ùn đi lên, hình như có
tiếng nói tiếng cười nhiều hơn trước.

Qua ngang khoảng đường bị quân Bắc việt đóng
chốt bắn chận, khoảng đường mà B chết hụt, xác
người chết nằm đủ tư thế, xác giữa đường xác bên lề,

có cả con nít, tôi đếm nhẩm chắc cở hơn 200, đếm

thử mà không dám nhìn, sợ nhìn càng lâu càng buồn

thêm, nằm vương vải tứ tung, mấy ngày rồi cho nên

đã xình, mùi hôi bốc lên tứ phía, chiếc xe jeep cháy

nám đen quay đầu xuống bờ cánh đồng, hai xác

người lính bộ binh nằm gát ngang ghế, máu khô bầm

cứng, người trên đường đông như kiến, cố né cố

tránh qua mà đi, không đi kịp được thì xuống đi theo

bờ dưới ruộng, con đường mà chiếc xe tăng đã chạy

qua. Qua khỏi đó, chiếc xe tăng M48 quẹo lên trên

đường, theo sau là chiếc Dodge, chầm chậm tiếp tục

về hướng Hiếu Xương, đoàn người hối hả theo sau,

giữ khoảng cách chừng năm sáu chục thước, toán

lính vẫn đi cách khoảng trước sau, như đi di hành,

súng ghìm trên tay, nhìn về hướng đồng xa xa, lưa

thưa hai ba ngọn đồi, hai ba căn nhà có tranh có ngói,

vài đống rơm cao cở gần mái, một hàng dài dọc theo

dưới ruộng bên lề đường, không xa chiếc xe tăng lắm.

Đi như vậy được một lúc khỏi đoạn người chết khá

xa, bỗng dưng có nhiều người la lớn, cùng chỉ tay về
hướng cái đồi kế tiếp, sau hai ba căn nhà ngói cũ, lụp
sụp thấy có người ẩn hiện, thấp thoáng ở hai đống
rơm lớn, toán lính cũng vừa nhận ra, họ dàn hàng

ngang, cũng với tư thế hạ người thấp xuống mấy

hàng bờ đê ruộng, vừa bắn vừa tiến sâu vào, chiếc xe

tăng được báo, ngừng lại, quay họng súng đại bác

bắn hướng căn nhà, đống rơm bể nát cùng với ba

bốn thân người văng cao lên rồi rớt xuống ruộng, và

một số chừng chục người từ sau căn nhà bỏ chạy về

hướng sông Ba, hình như có mang súng, chắc là quân

du kích Việt cộng ở vùng này, toán lính mình không

tiến thêm, dừng lại ngồi trên đê chờ, cũng khá lâu,

cảnh vật im lìm, nắng bắt đầu ngã bóng chiều, đoàn

người cũng kiên nhẩn chờ, toán lính quày trở lại

đường, bắt tay nhau làm dấu đường thông rồi, chiếc

xe tăng M48 chạy đi, đoàn người một lần nữa giục

nhau hối hả đi tiếp. Cứ đi như vậy cho tới gần chiều,

chưa hẳn tối, vẫn còn nắng, đi sau người chen chúc

phía đầu đoàn một quảng đường khá xa, cuối cùng,

ba thằng tôi cũng tới ven quận lỵ Hiếu Xương, nhà

cửa, cây cối xanh một màu, ngay đầu ngả vào, trên

một khoảng đồng cỏ hoang xanh, cả trăm người lính

địa phương quân mang súng, đứng rãi rác quanh bốn

năm chiếc xe thiết giáp M113 nằm xéo quay đầu về
hướng đập Đồng Cam, nhìn đoàn người lặng thinh,
phía sau lưng tôi, người và người giờ đã thắm mệt,
thất thểu vẫn còn nối đuôi nhau đi, trời bắt đầu tối
hẳn.

Nằm ở một góc hiên nhà ai đó còn có người ở,
đoàn người di tản từ Pleiku xuống cứ lầm lũi đi ngang

trong bóng đêm lờ mờ, ba thằng tôi thở dài chờ sáng,

chiếc xe tăng, chiếc xe Dodge và thân nhân họ, trong

đó có hai cô H và L giờ chắc đã nghĩ chân đâu đó, khỏi

nơi này xa lắm rồi, thôi mừng cho họ, mà cũng mừng

cho mình, trời còn thương nên được về tới đây, bỏ lại

con đường liên tỉnh lộ 7B Mỹ Thạnh Tuy Hòa, đầy

máu và nước mắt sau lưng, mặc dù từ đây đường

xuôi nam vẫn còn dài và dài ngút ngàn hun hút.

Xứ tạm dung tháng ba năm 2019


*Chân thành tạ ơn những người lính VNCH tại đập Đồng Cam nhất là các anh trên chiếc xe tăng M48 đã dũng cảm chấp nhận hiểm nguy, tấn công chốt quân Bắc việt, mở đường cho đoàn người di tản về tới Hiếu Xương bình an trong những ngày gần cuối tháng ba năm 1975, không biết giờ này các anh ở đâu, nếu đã không may nắm xuống, bài viết này xin được kính dâng các anh như một nén hương lòng tưởng nhớ.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

"Giáng sinh về bên xóm đạo Tha La" in trên báo Tây Ninh - thứ bảy 21.12.2024

  Trong tiết trời se lạnh, từ trung tâm thị xã Trảng Bàng vào đến xóm đạo Tha La (phường An Hòa) dọc hai bên đường rực rỡ những hang đá mừng...