Chuyện kể lại những ngày bỏ Kontum đi giữa tháng 3/1975 trên liên tỉnh lộ 7B
Tôi và đám bạn cùng chỗ làm ở Kontum vừa xuống
tới Pleiku trời nhá nhem tối, thì dưới này, quân đoàn
2, theo lệnh tướng Phú, đã rút khỏi cao nguyên từ
giữa trưa ngày 15 tháng 3, và cho tới hôm nay, 17
tháng 3, đoàn quân này có lẽ đã đi khá xa rồi, bộ tư
lệnh đèn đuốc còn đó nhưng cổng sắt mở toang, bộ
chỉ huy cảnh sát vùng 2, bên cạnh khách sạn Thanh
Lịch quen cũng không khác gì, giấy tờ hồ sơ nằm tứ
tung trong sân từng đống, tất cả đều không một bóng
người, dân chúng ở đây, già trẻ lớn bé, nhốn nháo
hổn loạn, chạy lên chạy xuống, ơi ới hò hét gọi nhau,
chất dọn bất cứ cái gì họ có, tủ giường chiếu gối,
quần áo dép giày, nồi niêu son chảo lên đủ mọi loại
xe, xe cam nhông, xe lam, xa ba bánh, xe Honda và cả
xe đạp, trước khi lôi kéo nhau, lên ngồi chật cứng, lúc
lơ lúc lắc trên những đống đồ cao, xe nào xong,
không ai chờ ai, lẳng lặng nổ máy, nối đuôi nhau màđi
Ngồi trên xe, chạy một vòng, ngược đoàn xe, đoàn
người gánh gồng đi bộ, từ tòa hành chánh, qua
đường Hoàng Diệu, ngang rạp chiếu bóng Diệp Kính,
xuống cổng phi trường Cù Hanh rồi bọn tôi quay trở
lại cư xá tỉnh, nơi đám công chức của Pleiku và
Kontum đang tụ họp, ngóng ngóng chờ chờ ở đó,
nhìn cảnh vật, thê thảm như thế này sao trời, hai bên
phố, tiệm quán cái cửa đóng kín, cái mở toang, trên
đường súng ống, áo lính giày trận, nón sắt nằm ngổn
ngang, la liệt, cái này đè lên cái kia phủ một màu bụi
đỏ, dưới ánh đèn điện vàng vỏ lạnh lùng giữa màn
sương đầu đêm vừa xuống, bọn tôi nhìn nhau, không
biết nói gì hơn, lắc đầu. Trở lại cư xá tỉnh, không xa
tòa hành chánh bao nhiêu, đám công chức các ty sở
Kontum, Pleiku và gia đình vợ con nhốn nháo, lo sợ ra
mặt, cứ lần quầng bên trong hàng rào, bàn ra tán
vào, đoán này đoán nọ, chẳng ai biết chuyện gì sẽ xảy
ra, cứ như vậy mà chờ chờ ngóng ngóng cho tới giữa
khuya, trong lúc đó, dân chúng Pleiku lần lượt tiếp
tục ra đi, cuối cùng, không ai bảo ai, mạnh ai nấy lo,
không có lời từ giã cũng như hẹn gặp lại, mọi người
lẳng lặng từng xe một rời đó, cũng như họ, giữa màn
đêm âm u, một màu chướng khí, tôi cùng đám bạn
Kontum lên xe, chiếc xe Ford loại cứu thương, nhập
theo đoàn người di tản rời khỏi thị xã Pleiku quá
khuya đêm đó, xem như Kontum và Pleiku đã bỏ
ngỏ, không kèn không trống, không văn thư không
lệnh lạc vào đầu đêm ngày chủ nhật 17 tháng 3 năm1975.
Đoàn người di tản, đi xe đi bộ, lính có dân có, chắc
cũng trên cả chục ngàn, cứ lầm lũi mà đi, đêm không
nghe tiếng súng. Qua một đêm chịu đựng cái lạnh của
núi rừng cao nguyên, rạng sáng, tới ngã ba cách thị xã
Pleiku về hướng nam độ 40 cây số, ngã ba Mỹ Thạnh,
đoàn người xuôi theo hướng liên tỉnh lộ 7B, con
đường nối quốc lộ 14 ở Pleiku đi Phú Yên, dài chừng
250 cây số, đã không dùng, bỏ hoang từ chục năm
nay, không xe cộ không bộ hành, núi rừng hiểm trở
chạy ngang qua Phú Bổn, theo dấu giòng người đi
trước mấy ngày, tiếp tục đi, vì Ban Mê Thuộc mất rồi,
Bắc quân chiếm Phước An, Phú Nhơn từ mấy ngàytrước.
Từ Pleiku xuống tới ngã ba Mỹ Thạnh, suốt một
ngày đêm, đường không có gì trở ngại, khỏe thì đi,
mệt thì nghỉ rồi cứ thế mà đi tiếp. Bắt đầu vào liên
tỉnh lộ 7B, đường chật cứng, nhỏ hẹp, hai bên là rừng
mây, chẳng chịt, đất đá chen nhau lởm chởm
nắng như thiêu như đốt, đêm lạnh rùng mình, người
lớn thì còn chịu được, tội nghiệp con nít, tội tình gì
mà phải như vầy. Vẫn không có tiếng súng, đoàn
người và xe cộ chậm chạp, lừ đừ qua đèo Chu Sê,
dưới bóng trăng lên pha lẫn ánh đèn của hàng mấy
chục chiếc xe GMC, xe Dodge cùng một số xe hơi dân
sự chở đầy người nối đuôi nhau, từ giữa đoàn, chỗ xe
tôi, tính từ đầu, đoàn người dài hơn mấy cây số, đó là
chưa kể mấy ngàn người ở phía sau, vào tới Hậu Bổn
cũng phải mấy chục cây số nữa, tới sáng chưa chắc đã
xong. Sáng hôm sau, nắng chang chang, đoàn người
ngang Phú Thiện, không người hoang vắng, lác đác
đâu đó hai ba người đàn ông Thượng, không biết sắc
tộc nào, áo quần đầy bụi, chậm chạp, ung dung, đẩy
xe đạp, trên chất đầy bao bố này bao bố kia, ngược
đoàn người di tản, về hướng buôn làng xa nào đó,
thằng bạn H ở Phú Thiện chắc cũng đã bỏ đi từ lâu.
Rồi chuyện gì xảy ra cũng xảy ra, qua cầu Phú Thiện
không lâu, sau đó xe hơi, xe Honda, xe GMC bắt đầu
lần lần phải bỏ nằm lại, máy móc không hư hao gì
nhưng không còn xăng đâu nữa mà chạy, xe Honda
giờ này cho không cũng chẳng ai thèm lấy, chủ nhân
quăng đại bên lề rừng, người bám người, bồng bế
nhau, may thì xin quá giang các xe nào còn chỗ nhét
lên được, không thì tay xách tay mang, dắt díu mà đi
tiếp, không đi nổi ngồi lại thở dốc, nhìn trời cao đất
rộng than trách cầu xin. Đói khát là chuyện dĩ nhiên,
không biết và cũng không thấy là người ta ăn uống ra
sao, với bọn tôi, trên xe nhờ mấy chục gói mì ăn liền,
ăn khô không nước và hai ba nãi chuối chín mang
theo từ Kontum, cho sáu miệng ăn giờ còn lại hai ba
gói, đi như vậy, mấy ngày trời, chắc vì vừa nóng lòng
vừa sợ, mà sợ thật, nếu không về tới ngoài đó, Tuy
Hòa, Nha Trang, bị kẹt lại vùng bị chiếm, số phận
cũng khó biết ngày sao sẽ ra sao nên khi đói thì chia
nhau bẽ từng bốc mà ngậm, nước uống nhờ vào bình
nước ni lông 20 lít trên xe, cũng hớp một hớp hai,
chớ không làm gì khác hơn.
Trong bóng đêm, người tiếp nối người, chật kín cả
con đường loang lở, xe cộ né tránh mà chạy, chạy
chậm hơn người, không ai buồn ngó. Qua lưng chừng
đèo không lâu, xe của bọn tôi cũng cùng chung số
phận, còn chút xăng đó nhưng cũng chỉ hai ba chục
cây số nữa là cùng, không còn nhớt máy, máy nóng
quá, tưởng như xe sắp nổ tung, thôi đành, chúng tôi
quyết định cho xe chạy ủi vào một khoảnh đất nhỏ,
bên bờ cái hố, bỏ lại đó rồi ai nấy gom góp những gì
mình cần, không còn cái gì ăn nữa để chia nhau,
ngoại trừ chút nước trong bình ni lông, sớt ra, đổ vào
mấy cái bình bi – đông lính mà người nào cũng thủ
sẳn trong cái túi xách bên mình, để chạy, hôm quân
Bắc việt tấn công vào tỉnh lỵ Kontum trước ngày Ban
Mê Thuộc mất, cũng may là còn đủ cho một người
một bình đầy chừng phân nửa nước. Bọn tôi tự động
chia tay, hai ba người đi chung, để còn có thể giúp
nhau cái gì hay cái đó, lúc nào hay lúc đó, bắt tay,
chúc may mắn, hẹn gặp lại ngoài kia, ngoài kia đó
nhưng không biết ở đâu, cứ hẹn đại, rồi nhập vào
giòng người rồng rắn, cứ vậy mà nối nhau đi không
khác gì một giòng sông chảy chậm, cùng với tôi có B
và N, ngó qua ngó lại, giữa trời mờ mờ, nhóm bạn
khác đã mất hút trong giòng người từ lâu.
Xế trưa, phía đầu đoàn người tới đâu đó, chỗ ngã
rẽ con đường vào thành phố Hậu Bổn, từ xa vẫn còn
thấy ánh đèn sáng trong đó nhưng mọi thứ đều yên
lặng, một cái yên lặng đáng sợ, khi bọn tôi lên tới,
người và người như một đoàn kiến rừng, không thấy
đất chỉ thấy người, đứng ngồi chật kín cả một khu
rộng hơn hai ba cái sân đá banh, đất thì khô cằn, nứt
nẻ, trời không một chút mưa, đi ngang qua chỗ có
mấy chiếc GMC nhà binh còn chạy được, đám lính bộ
binh của tiểu khu hay sư đoàn nào đó, súng quàng vai
thờ thẩn, vây quanh vợ con, miếng nước miếng cơm,
nhìn trời ngao ngán, ngó xuống ngó lên, có tiếng con
nít khóc kéo dài, đôi khi đứt quảng xa xa, trên này
dưới kia, hể cứ nghe ai đó phía đầu đoàn, nói đầu
đoàn chứ cũng phải xa cả cây số, vọng xuống hô hoán
đi được thì ai nấy, cả khối người rục rịch đứng dậy
ngóng nhìn, như những lần ở mấy đoạn đường trước,
rồi lại ngồi xuống chờ vì chưa thấy có gì nhúc nhích.
Ba thằng tôi chen lẩn vào bụi rậm, giữa rừng
người, dưới gốc cây lớn, cao và khô đét, mệt mỏi
nhưng cũng đành chịu, trời bắt đầu vào chiều, chung
quanh đếm không biết bao nhiêu là gia đình, người
lớn con nít nằm la nằm liệt, không muốn nhưng
thằng nào cũng thấy đói, lấy bịch gạo sấy, khẩu phần
hành quân của lính, may được một anh trong đám
lính trên cái xe jeep đầy bụi đỏ, bỏ lại cùng lúc vì hai
bánh xe xẹp lép, thương tình cho, khi họ vác ba lô đi,
ra chia mỗi người một nhúm nhỏ gọn trong lòng bàn
tay rồi ngậm để hy vọng có sức mà đi tiếp, quay qua
quay lại, chưa nuốt trọn, đạn đại pháo của Bắc quân
từ phía bên phía dãy đồi xa pháo tới từng chập, rãi
rác trên dưới đoàn người, rớt xuống nổ vang vọng,
khói bụi đất, cây cỏ văng tứ tung, người là người hổn
loạn, hoảng sợ lôi kéo nhau chạy tứ phía, té ngã nằm
chất nằm chồng lên nhau, mặt mài xanh hơn tàu lá.
Cũng như họ, mấy thằng tôi, mạnh người nào
ngưới nấy chạy tìm chỗ trốn, tôi nằm đại sát xuống
đất cầu trời, đồng không mông quạnh, chỗ đâu mà
tránh mà núp, số ai nấy chịu, một lúc sau, tiếng pháo
ngưng bặt, thay bằng tiếng khóc tiếng kêu la suốt
một quảng đường, đã có người chết, người bị thương
nhưng không biết nhiều hay ít, rũi mà chết thì làm
sao, chôn chỗ nào, ở đâu hay tức tưởi, đứt ruột bỏ lại
cho trời đất xứ người, nghĩ người xấu xố rồi nghĩ tới
mình, nếu như là tôi thì sao đây, tôi ngồi thở dốc,
rươm rướm rùng mình, hai thằng bạn lạc mất rồi,
đám kia cũng không biết giờ này tới đâu, nắng tắt,
hoàng hôn xuống dần một màu tím đen, phủ chụp
xuống đoàn người, đen như màu bia mộ đá, bọn tôi
không thấy nhau sau đợt pháo đó.
Trời tối vào đêm, vẫn còn nghe tiếng khóc nảo nuột,
xót xa kéo dài theo chiều gió đêm của rừng đầu hạ,
có tiếng gọi nhau từ phía trên vọng xuống, có tiếng
máy nổ của mấy chiếc xe GMC già còn lại, đoàn người
không ai bảo ai, đứng dậy, tay xách vai mang, một lần
nữa, tôi theo giòng người rời Hậu Bổn trong đêm,
trên đường đi qua, không giống như những đoạn
đường trước, lần này có người đi có người ở lại, ở lại
vật vả với người thân, xác chết và vết thương, có cái
không còn toàn vẹn, kêu than tuyệt vọng, người đi cứ
đi, vì cũng không biết phải làm gì cho người ở lại,
nhìn mà buồn ray rứt. Nhắm mắt ráng mà làm ngơ,
tôi nhẩm đếm mỗi lần đi ngang qua, dưới màn đêm
mờ mờ, chắc cũng không dưới cả trăm người vừa
chết vừa bị thương, trong đêm có tiếng đạn pháo nổ
từng chập phía trước, văng vẳng vừa đủ nghe xa xa,
không biết ở đâu nhưng chắc cũng đã có người kém
may chết nằm trơ trọi trên đường nữa.
Tới rạng sáng, thêm một số xe GMC nữa bỏ lại trên
đường qua đèo Tuna, cách Hậu Bổn chừng bốn năm
cây số, về hướng Tuy Hòa, qua khỏi thung lủng Cheo
Reo, hàng trăm xác người chết, già trẻ lớn bé nằm
dọc theo đường, ướt đẩm sương đêm, bên cạnh cả
hàng dài những chiếc xe GMC, Jeep, Dodge chen lẩn
xe dân sự, cháy nám đen, chắc là của quân và dân di
tản đợt đầu, đoàn người có số dừng lại nghỉ dọc theo
bên đường, tôi theo số khác tiếp tục cắm cuối đầu đi
tới, đi mà cứ ngóng ngóng, ngó trước ngó sau, mong
thấy đám bạn đâu đó, bịch gạo sấy gần cạn, cuộn lại
bỏ lọt tuốt trong cái túi áo ka ki, bụi trộn mồ hôi bám
đầy, một màu cháo lòng khét, cái bình bi – đông
nước, mang trên dây nịt cũng không khá gì hơn, còn
một phần tư hay hơn chút xíu, đoàn người lúc này
không còn san sát nối nhau mà rời xa từng cụm từng
cụm một, nói từng cụm chứ mỗi cụm cũng cả mấy
trăm, xuống tới chân đèo, sắp giữa trưa, nắng nóng
vẫn nóng, mặt trời vừa đứng bóng, đoàn người đi
đầu ngừng lại, thấp tha thấp thỏm, không đi cũng
không ở, tôi cùng một số ngưới lính bộ binh, áo quần
không còn màu gì ra màu gì nữa, chen lên phía trước,
phía bên kia cầu Le Bac thấy có nhiều xác người chết,
chắc là bị trúng đạn pháo của quân Bắc Việt, những
chập pháo mà đoàn người di tản đã nghe trong đêm
khi bắt đầu lên đèo giữa khuya.
Tôi và mấy người lính, không ai nói tiếng nào, bỏ đi
trước, nhìn lại, người gọi người lục đục theo sau, cây
cầu sắt rĩ sét có từ thời Pháp, lung lay chầm chậm
đưa qua đưa lại, tưởng chừng như không bao lâu
chắc sập mất nếu cứ theo đà này với số lượng người
đông hơn kiến, đúng như đã thấy, cả một đoạn
đường vài trăm thước, chừng cả trăm xác chết, đàn
ông đàn bà, có cả con nít, nằm đủ tư thế, trên lề
đường cũng như trong bui rậm, không thấy ai ở lại
bên cạnh, chắc cũng đành chịu đớn đau, khóc biết
làm sao mà đủ, nuốt lệ mà đi, cố nhớ chỗ này, nhớ
ngày này, may nếu còn sống mà làm tang làm giỗ, có
nhiều người, nhiều lắm, qua cầu rồi, chắc lâu rồi
không thấy nước, thân thể cũng thèm nó, cho nên
mặc cho nhóm người trước bỏ đi, họ nhảy ùn xuống
con rạch, nước chắc sâu cở tới bụng, đứng lên ngồi
xuống cho đả, chuyện gì rồi tính sao, từng tốp từng
cụm người đi phía sau lẳng lặng hờ hửng ngang qua,
cây cầu cũng lắc lư như từ lúc có người qua tới giờ.
Tới chiều tối, tới Phú Túc không ai dừng lại, phố xá
cũng không khác gì Phú Thiện, tan hoang, không
người, người đi cứ đi, trên đường gần tới cầu Cà Lúi,
trong bóng đêm mờ chạng vạng, xác người chết nằm
dọc theo, cả một đoạn đường dài, có cả xác con nít
chắc cũng khoảng trên dưới cả trăm, có mùi hôi,
không biết chết vì bị pháo của quân Bắc việt hay đạn
súng bắn, có lẽ nằm đó cũng mấy ngày, rồi cũng như
mấy lần trước, tôi và đoàn người, nín thinh, bùi ngùi
tránh qua mà đi, hy vọng không có người quen mình
trong đó nhưng xót xa không ít cho người chết bị bỏ
lại sau lưng.
Suốt đêm, có người đi người nghỉ lại, sau một
quảng đường lên dốc của ngọn đồi rừng cây thưa
thớt không cao lắm nhưng không là đèo như mấy cái
đèo ở đoạn phía sau đã đi qua, hai bên cỏ tranh cao
khỏi đầu người, nhìn xuống ai nấy cũng mừng ra mặt,
người này gọi người kia chỉ chỏ, trời cũng lấp lửng
rạng sáng, có chút mặt trời lên, xa xa dưới đó có nhà
có bóng dừa rải rác, có hai ba con đường đất quanh
co và dăm ba đám ruộng, đống rơm, tôi cũng mừng
không ít, dù sao vẫn còn có chút gì đó để bám víu mà
hy vọng sống còn, người ta ai nấy xem ra quên hết
mệt mỏi, đi nhanh hơn, vậy mà gần tới xế chiều,
đoàn người trong đó có tôi mới tới dưới đầu làng,
chắc là xã ấp nào đây nhưng không thấy bóng người.
Nhà cửa nhiều hơn, cái tranh cái tôn, cách nhau
không xa, dọc theo con đường đất rộng, lác đác
ruộng từng đám nằm phía trước phía sau, đất cày và
khô cằn rạ, ngang qua một cái nhà tranh có cái lu
đựng nước lớn ở góc hiên trước, tôi lấy bình bi –
đông mang bên hông, giờ còn chừng không hơn một
lóng tay, ấn vào bên trong lu cho nước vào đầy, thở
ra nhẹ nhỏm.
Đi tới gần hơn, băng qua mấy đám ruộng, trước
mặt, đã có cả ngàn người ở đó, chật cứng trên một
khoảng đất rộng, xem ra giống như cái sân đá banh,
đi loanh quanh dòm ngó, trời bắt đầu chập choạng
tối, lác đác chỗ này chỗ kia, gặp bốn năm anh lính
mình, chắc là nghĩa quân hay địa phương quân gì đó,
còn mang súng, cầm đèn pin, đi lên đi xuống, nhỏ to
với nhau, tôi tới làm quen, hỏi ra mới biết là mình
đang ở quận lỵ Cung Sơn, tỉnh Phú Yên, chỗ này
không xa khu chợ quận lắm, không thấy ai ở đó, chỉ
còn lưa thưa ánh đèn điện vàng lờ mờ trước mấy dãy
nhà tường, có lẽ là văn phòng hay trường học, ở đây
cũng có thằng bạn M nữa, nhưng chắc thân ai nấy
liệu rồi, không mong gì gặp được nhưng nếu có gặp ở
đây thì chẳng có gì khá hơn, cũng bỏ chạy thôi. Thân
hình thì ốm yếu, đói khát bao ngày qua, chưa chết
cũng là may, rã mệt, tôi lẩn vào một góc bờ đê đất
khô, ngã người nhìn trời, sờ trong túi áo, bịch gạo sấy
còn chừng nắm tay nhỏ, rờ qua rờ lại, có tiếng đại
pháo phía trời sau lưng vọng về, mơ mơ màng màng
nhìn qua nhìn lại, ngủ thiếp đi. Giựt mình tỉnh dậy,
dụi mắt ngó quanh, giữa trời lờ mờ sáng, người trên
sân vận động, từng nhóm từng nhóm đã lục tục kéo
nhau đi xa xa theo con đường đất về hướng bờ sông
Ba, cũng như họ, không chờ không đợi, tôi ngồi bật lẹ
dậy, bỏ Cung Sơn đi cùng với năm sáu tốp người lưa
thưa theo sau, bên khu chợ quận, trời ửng sáng,
không bóng người.
Chừng một hai giờ trưa đoàn người tới bờ sông Ba,
khúc sông này hẹp, nói hẹp chứ cũng khoảng hơn hai
trăm thước, mùa này mực nước cạn, tới ngang đầu
gối, người dầy đặc người, đám đi trước lội bừa đi
trong nước, đám sau, trong đó tôi cứ như vậy mà
theo qua sông, đoàn người ở Cung Sơn đêm qua đã
qua sông gần hết thì cũng vừa lúc mặt trời chập
choạng xuống, chưa về chiều hẳn, nắng có phần dịu
đi, trời lảng đảng vài cụm mây xám đen lớn nhưng
vẫn không có mưa, khựng lại một lúc sau khi qua
sông, người nối người tiếp tục đi, thấy người trước đi
người sau cũng đi, con sông chỉ còn là một vạch nhỏ,
khuất dần phía sau lưng. Ở đoạn này lại có thêm
người chết, vài chục xác nằm rãi rác gần sát trong ven
đường rừng, vì đạp trúng phải mìn do quân đội Đại
Hàn gài lại dẩy đầy khi họ đóng vùng này trước đây.
Đi như vậy cho tới độ chừng một hai giờ sáng,
đường không còn đất đá lồi lõm, không mây rừng
chằng chịt, dễ đi và thẳng tấp, đoàn người đã tới đầu
trên của đập Đồng Cam, khúc cuối của hương lộ 436,
dưới ánh trắng chênh chếch, người ta thấy nhiều
đám ruộng chạy dài một bên, còn bên này là một
dòng nước, không phải con rạch, giống như một con
kinh đào, xa hơn thấy có lưa thưa nhà, có ánh đèn lờ
mờ, không biết nghe được gì ở phía đầu đoàn người,
năm ba cô gái trẻ chạy len ngược về phía tôi, đám
người ở sau, mừng rỡ luôn miệng nói là đã sắp vào
Tuy Hòa rồi, thì ra ở đây đã có hàng ngàn người đi từ
mấy ngày trước, kẹt lại nghẹt cứng, cuối cùng người
tới trước người tới sau, nhập chung dồn cục ở đây,
thiên hạ chen lấn, kẻ đầu này kẻ đầu kia, tìm người
quen người thân, hỏi nhau câu mất câu còn.
Rạng sáng, lang thang lên trên phía đầu đoàn
người, thử xem tại sao họ lại không đi tiếp nữa, tôi
gặp lại B và N, ngồi ở một góc bìa bờ đập nước, cả ba
nhìn nhau muốn khóc, trên giòng nước rãi rác vài xác
người chết trôi xình lên bập bềnh, mặt trắng bệch,
chắc chết cũng đã lâu. Ba người, không ai hỏi ai
chuyện đi đứng ra sao sau khi lạc mất nhau ở Hậu
Bổn, còn sống là may là mừng rồi, đl lên tới phía trên,
ở đây có chiếc xe tăng M48, và chiếc xe Dodge có lính
mình còn mặc quân phục rằn ri, cả gia đình họ, hình
như là Lôi Hỗ, súng ống hẳn hoi, đậu nối nhau trên
đường, tôi không chắc lắm, con đường về hướng Tuy
Hòa lặng yên, một bên toàn là đồng cỏ lát hun hút
cao tới gối, lấp xấp nước chạy dài tận dãy đồi rừng
cây xa xa, bên này là những đám ruộng còi trơ gốc ra
mục khô, nứt nẽ đất, lác đác một hai ngôi nhà và mấy
đống rơm lớn, không thấy người, dọc theo cũng cùng
bên này, có chừng bốn năm ngọn đồi nhỏ, không cao
nhưng cây cối chằng chịt, rậm rạp. Đi gần lên chút
nữa, đứng gần bên chiếc xe tăng, trước mặt trên một
đoạn đường dài cách chỗ tôi bọn tôi đứng khoảng
một hai trăm thước, hai ba xác người lính chết nằm
vắt ngang trên chiếc xe jeep cháy nám đen, hàng
trăm xác khác, có cả con nít nằm vương vãi đủ tư thế,
đủ chỗ, trên đường, trên bờ ruộng, mùi hôi thúi vẫn
còn lẩn quẩn theo chiều gió sớm, may mà ở đây
không có đám kên kên, gật đầu chào anh lính ngồi
trên xe tăng, bọn tôi quay trở lại, chen đám đông rồi
lủi vào gốc mấy bụi chuối già sau hông một căn nhà
tranh, cửa đóng không có người tạm nghỉ, nghe B và
N kể lại chuyện xảy ra mà mắt tôi cay xé, cổ họng
nghèn nghẹn.
Trời sẩm tối đêm đó, đêm xảy ra thảm nạn, hai
ngày trước, gần ba trăm người, trong đó B, lúc đó B
và N chưa gặp lại nhau, ở đầu đoàn, có cả chiếc xe
jeep với nhiều người lính bộ binh, thấy đường vắng
yên và không có động tịnh gì, giống như những đoạn
đường cũ, hễ cứ thấy đi được thì cứ đi. Chiếc xe jeep
chầm chậm chạy trước, số người còn lại kéo nhau
theo sau, vừa qua khỏi cái đồi cây cối rậm rạp, gần
chỗ đoàn người đang ở khá xa, đại liên của quân Bắc
việt đóng chốt trên đó, hình như là đám quân tiền
trạm, bắn xối xả vào họ như mưa trong vòng mười
lăm hai chục phút, tiếng đạn rít rợn người tung tóe
trên đường, B còn may là một trong số những người
sau cùng của toán này, thụt lui lại nằm im chờ tiếng
súng ngưng bặt rồi bò sát bờ ruộng quay về, mặt mài
không còn chút máu, cũng có một số người, kẹt trong
khúc đường bị bắn, không trúng đạn, phải nằm dầm
mình bất động dưới mực nước lấp xấp, chờ im, mới
dám bò trở lại chỗ cũ, họ cho biết chắc những người
kia, hơn hai trăm đã chết hết rồi, chiếc xe jeep quẹo
qua, nằm vắt ngang phân nửa trên bờ đường, phân
nửa dưới ruộng, thì ra đoạn đường về Hiếu Xương
trước mặt dài chừng hơn mười cây số đã bị quân Bắc
việt đóng chốt trên mấy ngọn đồi.
Người ta hết đi xuống đi lên chờ, ba thằng tôi cũng
không biết làm gì hơn, một ngày nữa qua, mà chẳng
thấy đoàn người nhúc nhích, ngay cả những người
lính và chiếc xe tăng cũng dậm chân tại chỗ, B và N
còn được bịch gạo sấy mua lại từ một anh lính địa
phương quân ở Cung Sơn nên ba thằng tôi vẫn còn
năm ba hột cầm cự cái đói được. Sáng hôm sau, ngày
thứ hai từ khi đến đây, ba thằng lang thang lên chỗ
chiếc xe tăng M48, làm quen với mấy anh lính trên
đó, dò la tin tức, không ngờ gặp lại hai chị em người
Thái trắng H và L, thư ký ở chỗ H làm, có ai đó quen
trong toán lính nên đã nhập bọn, xem như là người
của gia đình họ, H và L cho bọn tôi thêm mấy bịch gạo
sấy nữa, qua hai cô, được biết là toán lính, dùng máy
truyền tin còn xài trên xe, liên lạc với chi khu Hiếu
Xương, ở đây nói một đại đội địa phương quân và
một số xe lội nước M113 đang trên đường tới đập
Đồng Cam, sẽ giải tỏa con lộ nay mai nhưng hai ngày
rồi không thấy gì cả, cũng buổi sáng đó sau khi quày
trở lại chỗ cũ không lâu, nắng bắt đầu lên cao, trời
nóng như mọi ngày qua, một chiếc oanh tạc cơ A 37,
không biết từ đâu bay về, vòng hai ba vòng trên bầu
trời rồi thả hai ba trái bom xuống ở phía xa tít nào đó,
khói lên thấy rõ, rồi bay đi, mất hút về phía chân trời,
người ta ai nấy chỉ chỏ vui mừng, cứ tưởng là mọi
chuyện suông sẻ nhưng chờ cho tới chiều, và cho tới
ngày về tới Hiếu Xương, không thấy bóng dáng chiếc
oanh tạc cơ trở lại, đêm xuống ba thằng nằm chen
với người ở một góc ruộng khô bên này đường, nhìn
trời cao mà “than thân trách phận”.
Sáng sớm hôm sau, người người nhốn nháo, chạy
lên chạy xuống, sắp xếp đồ đạc, nai nịt thứ này thứ
kia, hỏi ra họ nói bữa nay toán quân có xe tăng sẽ
đánh chốt mở đường về Hiếu Xương, không chờ nữa,
mọi người chuẩn bị, hễ nghe hô đi được là đi, cùng
lúc đó từ phía cuối đoàn, chừng năm sáu chục người
lính bộ binh mang súng đi lên, ngang qua nói chung
chung, lên phụ mấy anh ở trễn mở đường. Người ùn
ùn theo người, trong đó có bọn tôi, háo hức đổ xô đi
lên phía trên, gần chỗ đầu có toán quân, chừng hơn
một trăm nhưng không tới gần được, vì cách chỗ họ,
chừng hơn một hai trăm thước, ba bốn anh bộ binh
đứng chận ngang, ra dấu đứng lại, vừa lo sợ vừa
mừng, toán lính đủ binh chủng súng cầm tay, tiếng
lên đạn lách cách. Chiếc xe tăng M48 nổ máy, phần
trên tháp đại liên thấy một anh ngồi nhô đầu lên
không cao lắm, khói đen quyện một khoảng xa, chiếc
xe Dodge có gia đình họ nằm yên, bọn tôi cũng như
những người đầu đoàn ngồi thấp xuống, nín thở chờ,
nhìn về hướng ngọn đồi, phải nhìn nhận là có một cái
gì kỳ diệu khó nói trong lúc này, không ai là thuộc cấp
của ai nhưng toán lính chừng trăm người, tự chỉ huy
tự nghe nhau, theo một thứ kỹ luật bất thành văn
đáng phục.
Chiếc xe tăng M48 rục rịch quay hơi ngang rồi từ từ
cặp bên bờ ruộng khô chạy dọc theo đường vì sợ cán
xác người trên đường, họng cây súng đại bác chĩa về
hướng cái đồi rậm có quân Bắc việt đóng chốt từ mấy
ngày qua, lừ đừ quay qua quay lại, toán lính chia làm
hai, một nhóm theo sau xe, nhóm còn lại, lần theo bờ
đê, núp người thấp xuống, từng bước tiến về hướng
đồi, chưa bao xa thì súng đại liên của quân đóng chốt
bắn xuống xối xả từng tràng dài cộng với hai ba trái
B40 rớt nổ bên kia đám đồng cỏ lát, nước bùn văng
lên tung tóe, toán lính mình nằm rạp xuống, trời cũng
vừa sắp đứng bóng, nóng vẫn nóng, ba thằng tôi hốt
hoảng ra mặt quay lui lại, đoàn người hoảng sợ la hét
vang trời, một lần nữa nhốn nháo, xô nhau chạy
ngược về chỗ cũ, người khum người bò, chiếc xe tăng
cùng một lúc, khẩu đại liên trên tháp xe nhả đạn bắn
trả và quay họng súng đại bác bắn lên phá tung một
khoảng cây rừng chen lẫn đá, tiếng đại liên hai bên
vẫn còn nổ liên hồi, chiếc xe tăng bắn thêm trái thứ
nhì, cát bụi mù mịt, toán lính sau xe đã dàn ra, theo
chân toán đi trước, bò sát đất ruộng, dọc theo mấy
bờ đê, vừa bắn liên tục vừa tiến về hướng đồi.
Lúc này đoàn người đã thụt lại chừa một khoảng
trống dài trên đường, không ai bảo ai, run cầm cập,
chiếc xe tăng sau đó nằm yên một chỗ, họng súng đại
bác vẫn nhắm vào cái đồi, chừng gần tiếng đồng hồ
tiếng súng ngưng bặt, không thấy động tịnh gì hết, ba
thằng tôi tim đập thình thịch, ngóng lên ngóng xuống
chờ, không ai thấy và không biết là toán lính mình
đánh nhau như thế nào, chết sống ra sao, không bao
lâu, họ lần lượt quay trở lại đường từ phía đồi, lần
này họ đi thẳng, súng trên tay, người lái chiếc xe tăng
nhô đầu lên, nói với họ gì đó, rồi cho xe thụt lui lại,
nằm thẳng sát bên bờ lề đường, từ từ tiến chậm về
hướng Hiếu Xương, chiếc xe Dodge nổ máy, xuống
ruộng chạy theo dấu xích sắt xe tăng, hai ba người
lính từ khoảng trên la vọng xuống, đi được rồi, chỉ
nghe vậy thôi, đoàn người ùn ùn đi lên, hình như có
tiếng nói tiếng cười nhiều hơn trước.
Qua ngang khoảng đường bị quân Bắc việt đóng
chốt bắn chận, khoảng đường mà B chết hụt, xác
người chết nằm đủ tư thế, xác giữa đường xác bên lề,
có cả con nít, tôi đếm nhẩm chắc cở hơn 200, đếm
thử mà không dám nhìn, sợ nhìn càng lâu càng buồn
thêm, nằm vương vải tứ tung, mấy ngày rồi cho nên
đã xình, mùi hôi bốc lên tứ phía, chiếc xe jeep cháy
nám đen quay đầu xuống bờ cánh đồng, hai xác
người lính bộ binh nằm gát ngang ghế, máu khô bầm
cứng, người trên đường đông như kiến, cố né cố
tránh qua mà đi, không đi kịp được thì xuống đi theo
bờ dưới ruộng, con đường mà chiếc xe tăng đã chạy
qua. Qua khỏi đó, chiếc xe tăng M48 quẹo lên trên
đường, theo sau là chiếc Dodge, chầm chậm tiếp tục
về hướng Hiếu Xương, đoàn người hối hả theo sau,
giữ khoảng cách chừng năm sáu chục thước, toán
lính vẫn đi cách khoảng trước sau, như đi di hành,
súng ghìm trên tay, nhìn về hướng đồng xa xa, lưa
thưa hai ba ngọn đồi, hai ba căn nhà có tranh có ngói,
vài đống rơm cao cở gần mái, một hàng dài dọc theo
dưới ruộng bên lề đường, không xa chiếc xe tăng lắm.
Đi như vậy được một lúc khỏi đoạn người chết khá
xa, bỗng dưng có nhiều người la lớn, cùng chỉ tay về
hướng cái đồi kế tiếp, sau hai ba căn nhà ngói cũ, lụp
sụp thấy có người ẩn hiện, thấp thoáng ở hai đống
rơm lớn, toán lính cũng vừa nhận ra, họ dàn hàng
ngang, cũng với tư thế hạ người thấp xuống mấy
hàng bờ đê ruộng, vừa bắn vừa tiến sâu vào, chiếc xe
tăng được báo, ngừng lại, quay họng súng đại bác
bắn hướng căn nhà, đống rơm bể nát cùng với ba
bốn thân người văng cao lên rồi rớt xuống ruộng, và
một số chừng chục người từ sau căn nhà bỏ chạy về
hướng sông Ba, hình như có mang súng, chắc là quân
du kích Việt cộng ở vùng này, toán lính mình không
tiến thêm, dừng lại ngồi trên đê chờ, cũng khá lâu,
cảnh vật im lìm, nắng bắt đầu ngã bóng chiều, đoàn
người cũng kiên nhẩn chờ, toán lính quày trở lại
đường, bắt tay nhau làm dấu đường thông rồi, chiếc
xe tăng M48 chạy đi, đoàn người một lần nữa giục
nhau hối hả đi tiếp. Cứ đi như vậy cho tới gần chiều,
chưa hẳn tối, vẫn còn nắng, đi sau người chen chúc
phía đầu đoàn một quảng đường khá xa, cuối cùng,
ba thằng tôi cũng tới ven quận lỵ Hiếu Xương, nhà
cửa, cây cối xanh một màu, ngay đầu ngả vào, trên
một khoảng đồng cỏ hoang xanh, cả trăm người lính
địa phương quân mang súng, đứng rãi rác quanh bốn
năm chiếc xe thiết giáp M113 nằm xéo quay đầu về
hướng đập Đồng Cam, nhìn đoàn người lặng thinh,
phía sau lưng tôi, người và người giờ đã thắm mệt,
thất thểu vẫn còn nối đuôi nhau đi, trời bắt đầu tối
hẳn.
Nằm ở một góc hiên nhà ai đó còn có người ở,
đoàn người di tản từ Pleiku xuống cứ lầm lũi đi ngang
trong bóng đêm lờ mờ, ba thằng tôi thở dài chờ sáng,
chiếc xe tăng, chiếc xe Dodge và thân nhân họ, trong
đó có hai cô H và L giờ chắc đã nghĩ chân đâu đó, khỏi
nơi này xa lắm rồi, thôi mừng cho họ, mà cũng mừng
cho mình, trời còn thương nên được về tới đây, bỏ lại
con đường liên tỉnh lộ 7B Mỹ Thạnh Tuy Hòa, đầy
máu và nước mắt sau lưng, mặc dù từ đây đường
xuôi nam vẫn còn dài và dài ngút ngàn hun hút.
Xứ tạm dung tháng ba năm 2019
*Chân thành tạ ơn những người lính VNCH tại đập Đồng Cam nhất là các anh trên chiếc xe tăng M48 đã dũng cảm chấp nhận hiểm nguy, tấn công chốt quân Bắc việt, mở đường cho đoàn người di tản về tới Hiếu Xương bình an trong những ngày gần cuối tháng ba năm 1975, không biết giờ này các anh ở đâu, nếu đã không may nắm xuống, bài viết này xin được kính dâng các anh như một nén hương lòng tưởng nhớ.
Tôi và đám bạn cùng chỗ làm ở Kontum vừa xuống
tới Pleiku trời nhá nhem tối, thì dưới này, quân đoàn
2, theo lệnh tướng Phú, đã rút khỏi cao nguyên từ
giữa trưa ngày 15 tháng 3, và cho tới hôm nay, 17
tháng 3, đoàn quân này có lẽ đã đi khá xa rồi, bộ tư
lệnh đèn đuốc còn đó nhưng cổng sắt mở toang, bộ
chỉ huy cảnh sát vùng 2, bên cạnh khách sạn Thanh
Lịch quen cũng không khác gì, giấy tờ hồ sơ nằm tứ
tung trong sân từng đống, tất cả đều không một bóng
người, dân chúng ở đây, già trẻ lớn bé, nhốn nháo
hổn loạn, chạy lên chạy xuống, ơi ới hò hét gọi nhau,
chất dọn bất cứ cái gì họ có, tủ giường chiếu gối,
quần áo dép giày, nồi niêu son chảo lên đủ mọi loại
xe, xe cam nhông, xe lam, xa ba bánh, xe Honda và cả
xe đạp, trước khi lôi kéo nhau, lên ngồi chật cứng, lúc
lơ lúc lắc trên những đống đồ cao, xe nào xong,
không ai chờ ai, lẳng lặng nổ máy, nối đuôi nhau màđi
Ngồi trên xe, chạy một vòng, ngược đoàn xe, đoàn
người gánh gồng đi bộ, từ tòa hành chánh, qua
đường Hoàng Diệu, ngang rạp chiếu bóng Diệp Kính,
xuống cổng phi trường Cù Hanh rồi bọn tôi quay trở
lại cư xá tỉnh, nơi đám công chức của Pleiku và
Kontum đang tụ họp, ngóng ngóng chờ chờ ở đó,
nhìn cảnh vật, thê thảm như thế này sao trời, hai bên
phố, tiệm quán cái cửa đóng kín, cái mở toang, trên
đường súng ống, áo lính giày trận, nón sắt nằm ngổn
ngang, la liệt, cái này đè lên cái kia phủ một màu bụi
đỏ, dưới ánh đèn điện vàng vỏ lạnh lùng giữa màn
sương đầu đêm vừa xuống, bọn tôi nhìn nhau, không
biết nói gì hơn, lắc đầu. Trở lại cư xá tỉnh, không xa
tòa hành chánh bao nhiêu, đám công chức các ty sở
Kontum, Pleiku và gia đình vợ con nhốn nháo, lo sợ ra
mặt, cứ lần quầng bên trong hàng rào, bàn ra tán
vào, đoán này đoán nọ, chẳng ai biết chuyện gì sẽ xảy
ra, cứ như vậy mà chờ chờ ngóng ngóng cho tới giữa
khuya, trong lúc đó, dân chúng Pleiku lần lượt tiếp
tục ra đi, cuối cùng, không ai bảo ai, mạnh ai nấy lo,
không có lời từ giã cũng như hẹn gặp lại, mọi người
lẳng lặng từng xe một rời đó, cũng như họ, giữa màn
đêm âm u, một màu chướng khí, tôi cùng đám bạn
Kontum lên xe, chiếc xe Ford loại cứu thương, nhập
theo đoàn người di tản rời khỏi thị xã Pleiku quá
khuya đêm đó, xem như Kontum và Pleiku đã bỏ
ngỏ, không kèn không trống, không văn thư không
lệnh lạc vào đầu đêm ngày chủ nhật 17 tháng 3 năm1975.
Đoàn người di tản, đi xe đi bộ, lính có dân có, chắc
cũng trên cả chục ngàn, cứ lầm lũi mà đi, đêm không
nghe tiếng súng. Qua một đêm chịu đựng cái lạnh của
núi rừng cao nguyên, rạng sáng, tới ngã ba cách thị xã
Pleiku về hướng nam độ 40 cây số, ngã ba Mỹ Thạnh,
đoàn người xuôi theo hướng liên tỉnh lộ 7B, con
đường nối quốc lộ 14 ở Pleiku đi Phú Yên, dài chừng
250 cây số, đã không dùng, bỏ hoang từ chục năm
nay, không xe cộ không bộ hành, núi rừng hiểm trở
chạy ngang qua Phú Bổn, theo dấu giòng người đi
trước mấy ngày, tiếp tục đi, vì Ban Mê Thuộc mất rồi,
Bắc quân chiếm Phước An, Phú Nhơn từ mấy ngàytrước.
Từ Pleiku xuống tới ngã ba Mỹ Thạnh, suốt một
ngày đêm, đường không có gì trở ngại, khỏe thì đi,
mệt thì nghỉ rồi cứ thế mà đi tiếp. Bắt đầu vào liên
tỉnh lộ 7B, đường chật cứng, nhỏ hẹp, hai bên là rừng
mây, chẳng chịt, đất đá chen nhau lởm chởm
nắng như thiêu như đốt, đêm lạnh rùng mình, người
lớn thì còn chịu được, tội nghiệp con nít, tội tình gì
mà phải như vầy. Vẫn không có tiếng súng, đoàn
người và xe cộ chậm chạp, lừ đừ qua đèo Chu Sê,
dưới bóng trăng lên pha lẫn ánh đèn của hàng mấy
chục chiếc xe GMC, xe Dodge cùng một số xe hơi dân
sự chở đầy người nối đuôi nhau, từ giữa đoàn, chỗ xe
tôi, tính từ đầu, đoàn người dài hơn mấy cây số, đó là
chưa kể mấy ngàn người ở phía sau, vào tới Hậu Bổn
cũng phải mấy chục cây số nữa, tới sáng chưa chắc đã
xong. Sáng hôm sau, nắng chang chang, đoàn người
ngang Phú Thiện, không người hoang vắng, lác đác
đâu đó hai ba người đàn ông Thượng, không biết sắc
tộc nào, áo quần đầy bụi, chậm chạp, ung dung, đẩy
xe đạp, trên chất đầy bao bố này bao bố kia, ngược
đoàn người di tản, về hướng buôn làng xa nào đó,
thằng bạn H ở Phú Thiện chắc cũng đã bỏ đi từ lâu.
Rồi chuyện gì xảy ra cũng xảy ra, qua cầu Phú Thiện
không lâu, sau đó xe hơi, xe Honda, xe GMC bắt đầu
lần lần phải bỏ nằm lại, máy móc không hư hao gì
nhưng không còn xăng đâu nữa mà chạy, xe Honda
giờ này cho không cũng chẳng ai thèm lấy, chủ nhân
quăng đại bên lề rừng, người bám người, bồng bế
nhau, may thì xin quá giang các xe nào còn chỗ nhét
lên được, không thì tay xách tay mang, dắt díu mà đi
tiếp, không đi nổi ngồi lại thở dốc, nhìn trời cao đất
rộng than trách cầu xin. Đói khát là chuyện dĩ nhiên,
không biết và cũng không thấy là người ta ăn uống ra
sao, với bọn tôi, trên xe nhờ mấy chục gói mì ăn liền,
ăn khô không nước và hai ba nãi chuối chín mang
theo từ Kontum, cho sáu miệng ăn giờ còn lại hai ba
gói, đi như vậy, mấy ngày trời, chắc vì vừa nóng lòng
vừa sợ, mà sợ thật, nếu không về tới ngoài đó, Tuy
Hòa, Nha Trang, bị kẹt lại vùng bị chiếm, số phận
cũng khó biết ngày sao sẽ ra sao nên khi đói thì chia
nhau bẽ từng bốc mà ngậm, nước uống nhờ vào bình
nước ni lông 20 lít trên xe, cũng hớp một hớp hai,
chớ không làm gì khác hơn.
Trong bóng đêm, người tiếp nối người, chật kín cả
con đường loang lở, xe cộ né tránh mà chạy, chạy
chậm hơn người, không ai buồn ngó. Qua lưng chừng
đèo không lâu, xe của bọn tôi cũng cùng chung số
phận, còn chút xăng đó nhưng cũng chỉ hai ba chục
cây số nữa là cùng, không còn nhớt máy, máy nóng
quá, tưởng như xe sắp nổ tung, thôi đành, chúng tôi
quyết định cho xe chạy ủi vào một khoảnh đất nhỏ,
bên bờ cái hố, bỏ lại đó rồi ai nấy gom góp những gì
mình cần, không còn cái gì ăn nữa để chia nhau,
ngoại trừ chút nước trong bình ni lông, sớt ra, đổ vào
mấy cái bình bi – đông lính mà người nào cũng thủ
sẳn trong cái túi xách bên mình, để chạy, hôm quân
Bắc việt tấn công vào tỉnh lỵ Kontum trước ngày Ban
Mê Thuộc mất, cũng may là còn đủ cho một người
một bình đầy chừng phân nửa nước. Bọn tôi tự động
chia tay, hai ba người đi chung, để còn có thể giúp
nhau cái gì hay cái đó, lúc nào hay lúc đó, bắt tay,
chúc may mắn, hẹn gặp lại ngoài kia, ngoài kia đó
nhưng không biết ở đâu, cứ hẹn đại, rồi nhập vào
giòng người rồng rắn, cứ vậy mà nối nhau đi không
khác gì một giòng sông chảy chậm, cùng với tôi có B
và N, ngó qua ngó lại, giữa trời mờ mờ, nhóm bạn
khác đã mất hút trong giòng người từ lâu.
Xế trưa, phía đầu đoàn người tới đâu đó, chỗ ngã
rẽ con đường vào thành phố Hậu Bổn, từ xa vẫn còn
thấy ánh đèn sáng trong đó nhưng mọi thứ đều yên
lặng, một cái yên lặng đáng sợ, khi bọn tôi lên tới,
người và người như một đoàn kiến rừng, không thấy
đất chỉ thấy người, đứng ngồi chật kín cả một khu
rộng hơn hai ba cái sân đá banh, đất thì khô cằn, nứt
nẻ, trời không một chút mưa, đi ngang qua chỗ có
mấy chiếc GMC nhà binh còn chạy được, đám lính bộ
binh của tiểu khu hay sư đoàn nào đó, súng quàng vai
thờ thẩn, vây quanh vợ con, miếng nước miếng cơm,
nhìn trời ngao ngán, ngó xuống ngó lên, có tiếng con
nít khóc kéo dài, đôi khi đứt quảng xa xa, trên này
dưới kia, hể cứ nghe ai đó phía đầu đoàn, nói đầu
đoàn chứ cũng phải xa cả cây số, vọng xuống hô hoán
đi được thì ai nấy, cả khối người rục rịch đứng dậy
ngóng nhìn, như những lần ở mấy đoạn đường trước,
rồi lại ngồi xuống chờ vì chưa thấy có gì nhúc nhích.
Ba thằng tôi chen lẩn vào bụi rậm, giữa rừng
người, dưới gốc cây lớn, cao và khô đét, mệt mỏi
nhưng cũng đành chịu, trời bắt đầu vào chiều, chung
quanh đếm không biết bao nhiêu là gia đình, người
lớn con nít nằm la nằm liệt, không muốn nhưng
thằng nào cũng thấy đói, lấy bịch gạo sấy, khẩu phần
hành quân của lính, may được một anh trong đám
lính trên cái xe jeep đầy bụi đỏ, bỏ lại cùng lúc vì hai
bánh xe xẹp lép, thương tình cho, khi họ vác ba lô đi,
ra chia mỗi người một nhúm nhỏ gọn trong lòng bàn
tay rồi ngậm để hy vọng có sức mà đi tiếp, quay qua
quay lại, chưa nuốt trọn, đạn đại pháo của Bắc quân
từ phía bên phía dãy đồi xa pháo tới từng chập, rãi
rác trên dưới đoàn người, rớt xuống nổ vang vọng,
khói bụi đất, cây cỏ văng tứ tung, người là người hổn
loạn, hoảng sợ lôi kéo nhau chạy tứ phía, té ngã nằm
chất nằm chồng lên nhau, mặt mài xanh hơn tàu lá.
Cũng như họ, mấy thằng tôi, mạnh người nào
ngưới nấy chạy tìm chỗ trốn, tôi nằm đại sát xuống
đất cầu trời, đồng không mông quạnh, chỗ đâu mà
tránh mà núp, số ai nấy chịu, một lúc sau, tiếng pháo
ngưng bặt, thay bằng tiếng khóc tiếng kêu la suốt
một quảng đường, đã có người chết, người bị thương
nhưng không biết nhiều hay ít, rũi mà chết thì làm
sao, chôn chỗ nào, ở đâu hay tức tưởi, đứt ruột bỏ lại
cho trời đất xứ người, nghĩ người xấu xố rồi nghĩ tới
mình, nếu như là tôi thì sao đây, tôi ngồi thở dốc,
rươm rướm rùng mình, hai thằng bạn lạc mất rồi,
đám kia cũng không biết giờ này tới đâu, nắng tắt,
hoàng hôn xuống dần một màu tím đen, phủ chụp
xuống đoàn người, đen như màu bia mộ đá, bọn tôi
không thấy nhau sau đợt pháo đó.
Trời tối vào đêm, vẫn còn nghe tiếng khóc nảo nuột,
xót xa kéo dài theo chiều gió đêm của rừng đầu hạ,
có tiếng gọi nhau từ phía trên vọng xuống, có tiếng
máy nổ của mấy chiếc xe GMC già còn lại, đoàn người
không ai bảo ai, đứng dậy, tay xách vai mang, một lần
nữa, tôi theo giòng người rời Hậu Bổn trong đêm,
trên đường đi qua, không giống như những đoạn
đường trước, lần này có người đi có người ở lại, ở lại
vật vả với người thân, xác chết và vết thương, có cái
không còn toàn vẹn, kêu than tuyệt vọng, người đi cứ
đi, vì cũng không biết phải làm gì cho người ở lại,
nhìn mà buồn ray rứt. Nhắm mắt ráng mà làm ngơ,
tôi nhẩm đếm mỗi lần đi ngang qua, dưới màn đêm
mờ mờ, chắc cũng không dưới cả trăm người vừa
chết vừa bị thương, trong đêm có tiếng đạn pháo nổ
từng chập phía trước, văng vẳng vừa đủ nghe xa xa,
không biết ở đâu nhưng chắc cũng đã có người kém
may chết nằm trơ trọi trên đường nữa.
Tới rạng sáng, thêm một số xe GMC nữa bỏ lại trên
đường qua đèo Tuna, cách Hậu Bổn chừng bốn năm
cây số, về hướng Tuy Hòa, qua khỏi thung lủng Cheo
Reo, hàng trăm xác người chết, già trẻ lớn bé nằm
dọc theo đường, ướt đẩm sương đêm, bên cạnh cả
hàng dài những chiếc xe GMC, Jeep, Dodge chen lẩn
xe dân sự, cháy nám đen, chắc là của quân và dân di
tản đợt đầu, đoàn người có số dừng lại nghỉ dọc theo
bên đường, tôi theo số khác tiếp tục cắm cuối đầu đi
tới, đi mà cứ ngóng ngóng, ngó trước ngó sau, mong
thấy đám bạn đâu đó, bịch gạo sấy gần cạn, cuộn lại
bỏ lọt tuốt trong cái túi áo ka ki, bụi trộn mồ hôi bám
đầy, một màu cháo lòng khét, cái bình bi – đông
nước, mang trên dây nịt cũng không khá gì hơn, còn
một phần tư hay hơn chút xíu, đoàn người lúc này
không còn san sát nối nhau mà rời xa từng cụm từng
cụm một, nói từng cụm chứ mỗi cụm cũng cả mấy
trăm, xuống tới chân đèo, sắp giữa trưa, nắng nóng
vẫn nóng, mặt trời vừa đứng bóng, đoàn người đi
đầu ngừng lại, thấp tha thấp thỏm, không đi cũng
không ở, tôi cùng một số ngưới lính bộ binh, áo quần
không còn màu gì ra màu gì nữa, chen lên phía trước,
phía bên kia cầu Le Bac thấy có nhiều xác người chết,
chắc là bị trúng đạn pháo của quân Bắc Việt, những
chập pháo mà đoàn người di tản đã nghe trong đêm
khi bắt đầu lên đèo giữa khuya.
Tôi và mấy người lính, không ai nói tiếng nào, bỏ đi
trước, nhìn lại, người gọi người lục đục theo sau, cây
cầu sắt rĩ sét có từ thời Pháp, lung lay chầm chậm
đưa qua đưa lại, tưởng chừng như không bao lâu
chắc sập mất nếu cứ theo đà này với số lượng người
đông hơn kiến, đúng như đã thấy, cả một đoạn
đường vài trăm thước, chừng cả trăm xác chết, đàn
ông đàn bà, có cả con nít, nằm đủ tư thế, trên lề
đường cũng như trong bui rậm, không thấy ai ở lại
bên cạnh, chắc cũng đành chịu đớn đau, khóc biết
làm sao mà đủ, nuốt lệ mà đi, cố nhớ chỗ này, nhớ
ngày này, may nếu còn sống mà làm tang làm giỗ, có
nhiều người, nhiều lắm, qua cầu rồi, chắc lâu rồi
không thấy nước, thân thể cũng thèm nó, cho nên
mặc cho nhóm người trước bỏ đi, họ nhảy ùn xuống
con rạch, nước chắc sâu cở tới bụng, đứng lên ngồi
xuống cho đả, chuyện gì rồi tính sao, từng tốp từng
cụm người đi phía sau lẳng lặng hờ hửng ngang qua,
cây cầu cũng lắc lư như từ lúc có người qua tới giờ.
Tới chiều tối, tới Phú Túc không ai dừng lại, phố xá
cũng không khác gì Phú Thiện, tan hoang, không
người, người đi cứ đi, trên đường gần tới cầu Cà Lúi,
trong bóng đêm mờ chạng vạng, xác người chết nằm
dọc theo, cả một đoạn đường dài, có cả xác con nít
chắc cũng khoảng trên dưới cả trăm, có mùi hôi,
không biết chết vì bị pháo của quân Bắc việt hay đạn
súng bắn, có lẽ nằm đó cũng mấy ngày, rồi cũng như
mấy lần trước, tôi và đoàn người, nín thinh, bùi ngùi
tránh qua mà đi, hy vọng không có người quen mình
trong đó nhưng xót xa không ít cho người chết bị bỏ
lại sau lưng.
Suốt đêm, có người đi người nghỉ lại, sau một
quảng đường lên dốc của ngọn đồi rừng cây thưa
thớt không cao lắm nhưng không là đèo như mấy cái
đèo ở đoạn phía sau đã đi qua, hai bên cỏ tranh cao
khỏi đầu người, nhìn xuống ai nấy cũng mừng ra mặt,
người này gọi người kia chỉ chỏ, trời cũng lấp lửng
rạng sáng, có chút mặt trời lên, xa xa dưới đó có nhà
có bóng dừa rải rác, có hai ba con đường đất quanh
co và dăm ba đám ruộng, đống rơm, tôi cũng mừng
không ít, dù sao vẫn còn có chút gì đó để bám víu mà
hy vọng sống còn, người ta ai nấy xem ra quên hết
mệt mỏi, đi nhanh hơn, vậy mà gần tới xế chiều,
đoàn người trong đó có tôi mới tới dưới đầu làng,
chắc là xã ấp nào đây nhưng không thấy bóng người.
Nhà cửa nhiều hơn, cái tranh cái tôn, cách nhau
không xa, dọc theo con đường đất rộng, lác đác
ruộng từng đám nằm phía trước phía sau, đất cày và
khô cằn rạ, ngang qua một cái nhà tranh có cái lu
đựng nước lớn ở góc hiên trước, tôi lấy bình bi –
đông mang bên hông, giờ còn chừng không hơn một
lóng tay, ấn vào bên trong lu cho nước vào đầy, thở
ra nhẹ nhỏm.
Đi tới gần hơn, băng qua mấy đám ruộng, trước
mặt, đã có cả ngàn người ở đó, chật cứng trên một
khoảng đất rộng, xem ra giống như cái sân đá banh,
đi loanh quanh dòm ngó, trời bắt đầu chập choạng
tối, lác đác chỗ này chỗ kia, gặp bốn năm anh lính
mình, chắc là nghĩa quân hay địa phương quân gì đó,
còn mang súng, cầm đèn pin, đi lên đi xuống, nhỏ to
với nhau, tôi tới làm quen, hỏi ra mới biết là mình
đang ở quận lỵ Cung Sơn, tỉnh Phú Yên, chỗ này
không xa khu chợ quận lắm, không thấy ai ở đó, chỉ
còn lưa thưa ánh đèn điện vàng lờ mờ trước mấy dãy
nhà tường, có lẽ là văn phòng hay trường học, ở đây
cũng có thằng bạn M nữa, nhưng chắc thân ai nấy
liệu rồi, không mong gì gặp được nhưng nếu có gặp ở
đây thì chẳng có gì khá hơn, cũng bỏ chạy thôi. Thân
hình thì ốm yếu, đói khát bao ngày qua, chưa chết
cũng là may, rã mệt, tôi lẩn vào một góc bờ đê đất
khô, ngã người nhìn trời, sờ trong túi áo, bịch gạo sấy
còn chừng nắm tay nhỏ, rờ qua rờ lại, có tiếng đại
pháo phía trời sau lưng vọng về, mơ mơ màng màng
nhìn qua nhìn lại, ngủ thiếp đi. Giựt mình tỉnh dậy,
dụi mắt ngó quanh, giữa trời lờ mờ sáng, người trên
sân vận động, từng nhóm từng nhóm đã lục tục kéo
nhau đi xa xa theo con đường đất về hướng bờ sông
Ba, cũng như họ, không chờ không đợi, tôi ngồi bật lẹ
dậy, bỏ Cung Sơn đi cùng với năm sáu tốp người lưa
thưa theo sau, bên khu chợ quận, trời ửng sáng,
không bóng người.
Chừng một hai giờ trưa đoàn người tới bờ sông Ba,
khúc sông này hẹp, nói hẹp chứ cũng khoảng hơn hai
trăm thước, mùa này mực nước cạn, tới ngang đầu
gối, người dầy đặc người, đám đi trước lội bừa đi
trong nước, đám sau, trong đó tôi cứ như vậy mà
theo qua sông, đoàn người ở Cung Sơn đêm qua đã
qua sông gần hết thì cũng vừa lúc mặt trời chập
choạng xuống, chưa về chiều hẳn, nắng có phần dịu
đi, trời lảng đảng vài cụm mây xám đen lớn nhưng
vẫn không có mưa, khựng lại một lúc sau khi qua
sông, người nối người tiếp tục đi, thấy người trước đi
người sau cũng đi, con sông chỉ còn là một vạch nhỏ,
khuất dần phía sau lưng. Ở đoạn này lại có thêm
người chết, vài chục xác nằm rãi rác gần sát trong ven
đường rừng, vì đạp trúng phải mìn do quân đội Đại
Hàn gài lại dẩy đầy khi họ đóng vùng này trước đây.
Đi như vậy cho tới độ chừng một hai giờ sáng,
đường không còn đất đá lồi lõm, không mây rừng
chằng chịt, dễ đi và thẳng tấp, đoàn người đã tới đầu
trên của đập Đồng Cam, khúc cuối của hương lộ 436,
dưới ánh trắng chênh chếch, người ta thấy nhiều
đám ruộng chạy dài một bên, còn bên này là một
dòng nước, không phải con rạch, giống như một con
kinh đào, xa hơn thấy có lưa thưa nhà, có ánh đèn lờ
mờ, không biết nghe được gì ở phía đầu đoàn người,
năm ba cô gái trẻ chạy len ngược về phía tôi, đám
người ở sau, mừng rỡ luôn miệng nói là đã sắp vào
Tuy Hòa rồi, thì ra ở đây đã có hàng ngàn người đi từ
mấy ngày trước, kẹt lại nghẹt cứng, cuối cùng người
tới trước người tới sau, nhập chung dồn cục ở đây,
thiên hạ chen lấn, kẻ đầu này kẻ đầu kia, tìm người
quen người thân, hỏi nhau câu mất câu còn.
Rạng sáng, lang thang lên trên phía đầu đoàn
người, thử xem tại sao họ lại không đi tiếp nữa, tôi
gặp lại B và N, ngồi ở một góc bìa bờ đập nước, cả ba
nhìn nhau muốn khóc, trên giòng nước rãi rác vài xác
người chết trôi xình lên bập bềnh, mặt trắng bệch,
chắc chết cũng đã lâu. Ba người, không ai hỏi ai
chuyện đi đứng ra sao sau khi lạc mất nhau ở Hậu
Bổn, còn sống là may là mừng rồi, đl lên tới phía trên,
ở đây có chiếc xe tăng M48, và chiếc xe Dodge có lính
mình còn mặc quân phục rằn ri, cả gia đình họ, hình
như là Lôi Hỗ, súng ống hẳn hoi, đậu nối nhau trên
đường, tôi không chắc lắm, con đường về hướng Tuy
Hòa lặng yên, một bên toàn là đồng cỏ lát hun hút
cao tới gối, lấp xấp nước chạy dài tận dãy đồi rừng
cây xa xa, bên này là những đám ruộng còi trơ gốc ra
mục khô, nứt nẽ đất, lác đác một hai ngôi nhà và mấy
đống rơm lớn, không thấy người, dọc theo cũng cùng
bên này, có chừng bốn năm ngọn đồi nhỏ, không cao
nhưng cây cối chằng chịt, rậm rạp. Đi gần lên chút
nữa, đứng gần bên chiếc xe tăng, trước mặt trên một
đoạn đường dài cách chỗ tôi bọn tôi đứng khoảng
một hai trăm thước, hai ba xác người lính chết nằm
vắt ngang trên chiếc xe jeep cháy nám đen, hàng
trăm xác khác, có cả con nít nằm vương vãi đủ tư thế,
đủ chỗ, trên đường, trên bờ ruộng, mùi hôi thúi vẫn
còn lẩn quẩn theo chiều gió sớm, may mà ở đây
không có đám kên kên, gật đầu chào anh lính ngồi
trên xe tăng, bọn tôi quay trở lại, chen đám đông rồi
lủi vào gốc mấy bụi chuối già sau hông một căn nhà
tranh, cửa đóng không có người tạm nghỉ, nghe B và
N kể lại chuyện xảy ra mà mắt tôi cay xé, cổ họng
nghèn nghẹn.
Trời sẩm tối đêm đó, đêm xảy ra thảm nạn, hai
ngày trước, gần ba trăm người, trong đó B, lúc đó B
và N chưa gặp lại nhau, ở đầu đoàn, có cả chiếc xe
jeep với nhiều người lính bộ binh, thấy đường vắng
yên và không có động tịnh gì, giống như những đoạn
đường cũ, hễ cứ thấy đi được thì cứ đi. Chiếc xe jeep
chầm chậm chạy trước, số người còn lại kéo nhau
theo sau, vừa qua khỏi cái đồi cây cối rậm rạp, gần
chỗ đoàn người đang ở khá xa, đại liên của quân Bắc
việt đóng chốt trên đó, hình như là đám quân tiền
trạm, bắn xối xả vào họ như mưa trong vòng mười
lăm hai chục phút, tiếng đạn rít rợn người tung tóe
trên đường, B còn may là một trong số những người
sau cùng của toán này, thụt lui lại nằm im chờ tiếng
súng ngưng bặt rồi bò sát bờ ruộng quay về, mặt mài
không còn chút máu, cũng có một số người, kẹt trong
khúc đường bị bắn, không trúng đạn, phải nằm dầm
mình bất động dưới mực nước lấp xấp, chờ im, mới
dám bò trở lại chỗ cũ, họ cho biết chắc những người
kia, hơn hai trăm đã chết hết rồi, chiếc xe jeep quẹo
qua, nằm vắt ngang phân nửa trên bờ đường, phân
nửa dưới ruộng, thì ra đoạn đường về Hiếu Xương
trước mặt dài chừng hơn mười cây số đã bị quân Bắc
việt đóng chốt trên mấy ngọn đồi.
Người ta hết đi xuống đi lên chờ, ba thằng tôi cũng
không biết làm gì hơn, một ngày nữa qua, mà chẳng
thấy đoàn người nhúc nhích, ngay cả những người
lính và chiếc xe tăng cũng dậm chân tại chỗ, B và N
còn được bịch gạo sấy mua lại từ một anh lính địa
phương quân ở Cung Sơn nên ba thằng tôi vẫn còn
năm ba hột cầm cự cái đói được. Sáng hôm sau, ngày
thứ hai từ khi đến đây, ba thằng lang thang lên chỗ
chiếc xe tăng M48, làm quen với mấy anh lính trên
đó, dò la tin tức, không ngờ gặp lại hai chị em người
Thái trắng H và L, thư ký ở chỗ H làm, có ai đó quen
trong toán lính nên đã nhập bọn, xem như là người
của gia đình họ, H và L cho bọn tôi thêm mấy bịch gạo
sấy nữa, qua hai cô, được biết là toán lính, dùng máy
truyền tin còn xài trên xe, liên lạc với chi khu Hiếu
Xương, ở đây nói một đại đội địa phương quân và
một số xe lội nước M113 đang trên đường tới đập
Đồng Cam, sẽ giải tỏa con lộ nay mai nhưng hai ngày
rồi không thấy gì cả, cũng buổi sáng đó sau khi quày
trở lại chỗ cũ không lâu, nắng bắt đầu lên cao, trời
nóng như mọi ngày qua, một chiếc oanh tạc cơ A 37,
không biết từ đâu bay về, vòng hai ba vòng trên bầu
trời rồi thả hai ba trái bom xuống ở phía xa tít nào đó,
khói lên thấy rõ, rồi bay đi, mất hút về phía chân trời,
người ta ai nấy chỉ chỏ vui mừng, cứ tưởng là mọi
chuyện suông sẻ nhưng chờ cho tới chiều, và cho tới
ngày về tới Hiếu Xương, không thấy bóng dáng chiếc
oanh tạc cơ trở lại, đêm xuống ba thằng nằm chen
với người ở một góc ruộng khô bên này đường, nhìn
trời cao mà “than thân trách phận”.
Sáng sớm hôm sau, người người nhốn nháo, chạy
lên chạy xuống, sắp xếp đồ đạc, nai nịt thứ này thứ
kia, hỏi ra họ nói bữa nay toán quân có xe tăng sẽ
đánh chốt mở đường về Hiếu Xương, không chờ nữa,
mọi người chuẩn bị, hễ nghe hô đi được là đi, cùng
lúc đó từ phía cuối đoàn, chừng năm sáu chục người
lính bộ binh mang súng đi lên, ngang qua nói chung
chung, lên phụ mấy anh ở trễn mở đường. Người ùn
ùn theo người, trong đó có bọn tôi, háo hức đổ xô đi
lên phía trên, gần chỗ đầu có toán quân, chừng hơn
một trăm nhưng không tới gần được, vì cách chỗ họ,
chừng hơn một hai trăm thước, ba bốn anh bộ binh
đứng chận ngang, ra dấu đứng lại, vừa lo sợ vừa
mừng, toán lính đủ binh chủng súng cầm tay, tiếng
lên đạn lách cách. Chiếc xe tăng M48 nổ máy, phần
trên tháp đại liên thấy một anh ngồi nhô đầu lên
không cao lắm, khói đen quyện một khoảng xa, chiếc
xe Dodge có gia đình họ nằm yên, bọn tôi cũng như
những người đầu đoàn ngồi thấp xuống, nín thở chờ,
nhìn về hướng ngọn đồi, phải nhìn nhận là có một cái
gì kỳ diệu khó nói trong lúc này, không ai là thuộc cấp
của ai nhưng toán lính chừng trăm người, tự chỉ huy
tự nghe nhau, theo một thứ kỹ luật bất thành văn
đáng phục.
Chiếc xe tăng M48 rục rịch quay hơi ngang rồi từ từ
cặp bên bờ ruộng khô chạy dọc theo đường vì sợ cán
xác người trên đường, họng cây súng đại bác chĩa về
hướng cái đồi rậm có quân Bắc việt đóng chốt từ mấy
ngày qua, lừ đừ quay qua quay lại, toán lính chia làm
hai, một nhóm theo sau xe, nhóm còn lại, lần theo bờ
đê, núp người thấp xuống, từng bước tiến về hướng
đồi, chưa bao xa thì súng đại liên của quân đóng chốt
bắn xuống xối xả từng tràng dài cộng với hai ba trái
B40 rớt nổ bên kia đám đồng cỏ lát, nước bùn văng
lên tung tóe, toán lính mình nằm rạp xuống, trời cũng
vừa sắp đứng bóng, nóng vẫn nóng, ba thằng tôi hốt
hoảng ra mặt quay lui lại, đoàn người hoảng sợ la hét
vang trời, một lần nữa nhốn nháo, xô nhau chạy
ngược về chỗ cũ, người khum người bò, chiếc xe tăng
cùng một lúc, khẩu đại liên trên tháp xe nhả đạn bắn
trả và quay họng súng đại bác bắn lên phá tung một
khoảng cây rừng chen lẫn đá, tiếng đại liên hai bên
vẫn còn nổ liên hồi, chiếc xe tăng bắn thêm trái thứ
nhì, cát bụi mù mịt, toán lính sau xe đã dàn ra, theo
chân toán đi trước, bò sát đất ruộng, dọc theo mấy
bờ đê, vừa bắn liên tục vừa tiến về hướng đồi.
Lúc này đoàn người đã thụt lại chừa một khoảng
trống dài trên đường, không ai bảo ai, run cầm cập,
chiếc xe tăng sau đó nằm yên một chỗ, họng súng đại
bác vẫn nhắm vào cái đồi, chừng gần tiếng đồng hồ
tiếng súng ngưng bặt, không thấy động tịnh gì hết, ba
thằng tôi tim đập thình thịch, ngóng lên ngóng xuống
chờ, không ai thấy và không biết là toán lính mình
đánh nhau như thế nào, chết sống ra sao, không bao
lâu, họ lần lượt quay trở lại đường từ phía đồi, lần
này họ đi thẳng, súng trên tay, người lái chiếc xe tăng
nhô đầu lên, nói với họ gì đó, rồi cho xe thụt lui lại,
nằm thẳng sát bên bờ lề đường, từ từ tiến chậm về
hướng Hiếu Xương, chiếc xe Dodge nổ máy, xuống
ruộng chạy theo dấu xích sắt xe tăng, hai ba người
lính từ khoảng trên la vọng xuống, đi được rồi, chỉ
nghe vậy thôi, đoàn người ùn ùn đi lên, hình như có
tiếng nói tiếng cười nhiều hơn trước.
Qua ngang khoảng đường bị quân Bắc việt đóng
chốt bắn chận, khoảng đường mà B chết hụt, xác
người chết nằm đủ tư thế, xác giữa đường xác bên lề,
có cả con nít, tôi đếm nhẩm chắc cở hơn 200, đếm
thử mà không dám nhìn, sợ nhìn càng lâu càng buồn
thêm, nằm vương vải tứ tung, mấy ngày rồi cho nên
đã xình, mùi hôi bốc lên tứ phía, chiếc xe jeep cháy
nám đen quay đầu xuống bờ cánh đồng, hai xác
người lính bộ binh nằm gát ngang ghế, máu khô bầm
cứng, người trên đường đông như kiến, cố né cố
tránh qua mà đi, không đi kịp được thì xuống đi theo
bờ dưới ruộng, con đường mà chiếc xe tăng đã chạy
qua. Qua khỏi đó, chiếc xe tăng M48 quẹo lên trên
đường, theo sau là chiếc Dodge, chầm chậm tiếp tục
về hướng Hiếu Xương, đoàn người hối hả theo sau,
giữ khoảng cách chừng năm sáu chục thước, toán
lính vẫn đi cách khoảng trước sau, như đi di hành,
súng ghìm trên tay, nhìn về hướng đồng xa xa, lưa
thưa hai ba ngọn đồi, hai ba căn nhà có tranh có ngói,
vài đống rơm cao cở gần mái, một hàng dài dọc theo
dưới ruộng bên lề đường, không xa chiếc xe tăng lắm.
Đi như vậy được một lúc khỏi đoạn người chết khá
xa, bỗng dưng có nhiều người la lớn, cùng chỉ tay về
hướng cái đồi kế tiếp, sau hai ba căn nhà ngói cũ, lụp
sụp thấy có người ẩn hiện, thấp thoáng ở hai đống
rơm lớn, toán lính cũng vừa nhận ra, họ dàn hàng
ngang, cũng với tư thế hạ người thấp xuống mấy
hàng bờ đê ruộng, vừa bắn vừa tiến sâu vào, chiếc xe
tăng được báo, ngừng lại, quay họng súng đại bác
bắn hướng căn nhà, đống rơm bể nát cùng với ba
bốn thân người văng cao lên rồi rớt xuống ruộng, và
một số chừng chục người từ sau căn nhà bỏ chạy về
hướng sông Ba, hình như có mang súng, chắc là quân
du kích Việt cộng ở vùng này, toán lính mình không
tiến thêm, dừng lại ngồi trên đê chờ, cũng khá lâu,
cảnh vật im lìm, nắng bắt đầu ngã bóng chiều, đoàn
người cũng kiên nhẩn chờ, toán lính quày trở lại
đường, bắt tay nhau làm dấu đường thông rồi, chiếc
xe tăng M48 chạy đi, đoàn người một lần nữa giục
nhau hối hả đi tiếp. Cứ đi như vậy cho tới gần chiều,
chưa hẳn tối, vẫn còn nắng, đi sau người chen chúc
phía đầu đoàn một quảng đường khá xa, cuối cùng,
ba thằng tôi cũng tới ven quận lỵ Hiếu Xương, nhà
cửa, cây cối xanh một màu, ngay đầu ngả vào, trên
một khoảng đồng cỏ hoang xanh, cả trăm người lính
địa phương quân mang súng, đứng rãi rác quanh bốn
năm chiếc xe thiết giáp M113 nằm xéo quay đầu về
hướng đập Đồng Cam, nhìn đoàn người lặng thinh,
phía sau lưng tôi, người và người giờ đã thắm mệt,
thất thểu vẫn còn nối đuôi nhau đi, trời bắt đầu tối
hẳn.
Nằm ở một góc hiên nhà ai đó còn có người ở,
đoàn người di tản từ Pleiku xuống cứ lầm lũi đi ngang
trong bóng đêm lờ mờ, ba thằng tôi thở dài chờ sáng,
chiếc xe tăng, chiếc xe Dodge và thân nhân họ, trong
đó có hai cô H và L giờ chắc đã nghĩ chân đâu đó, khỏi
nơi này xa lắm rồi, thôi mừng cho họ, mà cũng mừng
cho mình, trời còn thương nên được về tới đây, bỏ lại
con đường liên tỉnh lộ 7B Mỹ Thạnh Tuy Hòa, đầy
máu và nước mắt sau lưng, mặc dù từ đây đường
xuôi nam vẫn còn dài và dài ngút ngàn hun hút.
Xứ tạm dung tháng ba năm 2019
*Chân thành tạ ơn những người lính VNCH tại đập Đồng Cam nhất là các anh trên chiếc xe tăng M48 đã dũng cảm chấp nhận hiểm nguy, tấn công chốt quân Bắc việt, mở đường cho đoàn người di tản về tới Hiếu Xương bình an trong những ngày gần cuối tháng ba năm 1975, không biết giờ này các anh ở đâu, nếu đã không may nắm xuống, bài viết này xin được kính dâng các anh như một nén hương lòng tưởng nhớ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét