Tống-Văn cho điệu một tội phạm trong ngục thất chuyên nghề ăn trộm, bảo
phải lấy chiếc chuông Chùa Hàn-Sơn đem về đây! Tội phạm vâng dạ và xin
cho một chiếc xe kéo. Lúc này sư cụ có chuyện đi xa, chùa vắng cho nên
tên trộm dễ dàng lẻn vào đánh cắp chuông, đem về đặt ngay ở phủ đường!!!
Khi về chùa, nghe Phật tử trình báo chuyện mất chuông, nhao nhao xin sư
cụ báo cáo quan phủ để truy lùng tội phạm! Sư cụ điềm nhiên hỏi:
-Trình báo để làm gì?
- Dạ thưa thầy, để trừng trị tên táo tợn này dám vào chùa ăn trộm
chuông! Đó là quỷ sứ hiện hình, chứ có phải người đâu? Chắc ba đời con
cháu nó phải quả báo sa địa ngục!!!
Sư cụ hiền từ nói:
- Khi túng thiếu, thì nhà quan tổng đốc nó cũng dám vào ăn trộm chứ
há gì chùa! Nó ăn trộm chuông, chứ con cháu nó có ăn trộm chuông đâu mà
đày chúng nó vào địa ngục, tội nghiệp!!!
- Thế nhưng chùa bị mất chuông bây giờ phải làm sao?
Sư cụ cười nói:
- Chuông đâu phải Phật, đâu phải Bồ-Tát, đâu phải La-Hán! Chuông chỉ
là phương tiện báo giờ cho dân gian hoặc vân tập chư tăng thôi! Nay
không có chuông, thì dùng phương tiện khác!!! Vả lại tên trộm này ít ra
cũng có chút hiểu biết…
Nghe tới đây thì đại chúng đâm bực mình, nhao nhao hỏi:
- Thưa sư cụ, nếu có chút hiểu biết thì ăn trộm nơi khác, tại sao lại vào chùa ăn trộm?
Sự cụ khoát tay trấn an đại chúng rồi nói:
- Tên trộm này biết rằng chùa là chốn từ bi cho nên có vào chùa ăn
trộm, thì chùa chắc sẽ tha thứ! Chứ nó đi nơi khác ăn trộm thì người ta
sẽ đi thưa, rồi quan nha sẽ bắt và tra khảo nó! Chùa khác với người
thường ở chỗ đó! Nay chùa cũng trả thù, đòi lại thì đâu còn là chùa
nữa!!!
Nghe sư cụ nói vậy, đại chúng lãnh hội, lạy tạ, lui ra. Rồi sư cụ ra lệnh dùng mõ báo giờ thay chuông!
Tin đó mau chóng tới tai phủ đường, Tống-Văn thất kinh hồn vía, thấy
mình hồ đồ quá, vội vã thay quần áo, tới chùa lạy tạ sư cụ, trả lại
chuông, xin quy y và nhận một pháp danh!
Sau đó Tống-Văn đích thân bỏ tiền ra rồi vận động các phú hào của Phủ Tô-Châu đóng góp, đúc một quả
chuông lớn hơn, nặng tới hai tấn! Nghe nói sau này, khi nghe tiếng
chuông Chùa Hàn-Sơn từ xa vọng tới, mà Trương-Kế mới có thể kết thúc
được bài thơ "Phong Kiều Dạ Bạc"!!!
Người kể chuyện: Đào-Văn-Bình
(California ngày 01/7/2017)
(ảnh:Wikipedia:chuông chùa Hàn Sơn)
PHONG KIỀU DẠ BẠC
Của Trương-Kế
Thu-Tứ
Trong Đường thi, Trần-Trọng-Kim nhận xét: "(Phong Kiều Dạ Bạc) hay ở âm
điệu, ít khi làm được như thế". Xem lại, tất cả những bài (và những
câu) thơ Đường mà chúng ta ưa nhất đều có đặc điểm "Hay ở âm-điệu", là
thứ đặc điểm "Ít khi" thấy trong cái tập hợp thơ lừng danh của người
Tàu!
"Êm tai" là sở trường của thơ Việt.(1) Ta thiên về thứ thơ giàu chất
nhạc, nên thỉnh thoảng gặp được bài "như thế" ở đâu, liền mừng rỡ, vui
vẻ trầm trồ, ngâm nga!
Bài thơ du dương của Trương-Kế, về tứ có chi tiết hơi lạ.
Nguyễn-Quảng-Tuân nêu: "Người ta cho rằng nửa đêm không làm gì có tiếng
chuông chùa" và giải thích: "Nguyệt lạc (...) là cảnh lúc về sáng rồi.
Tác giả đi nằm lúc nửa đêm song cứ mơ màng (...) khi chợt tỉnh (...) bị
ảo tưởng thời gian nên cho là mới có nửa đêm"(2)...
Bất kể đêm xưa chùa Hàn-San thỉnh chuông vào giờ nào, tiếng chuông ấy đã ngân nga thật lâu trong thơ!!!
Nguyên-văn:
Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch nghĩa:
Bến đêm Phong Kiều
Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời
Một bên là cây bờ sông và đèn câu, một bên là giấc ngủ buồn
Từ chùa Hàn San bên ngoài thành Cô Tô
Nửa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách.
Một bên là cây bờ sông và đèn câu, một bên là giấc ngủ buồn
Từ chùa Hàn San bên ngoài thành Cô Tô
Nửa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách.
Dịch ra thơ Đường luật:
Hải Đà:
Tiếng quạ kêu sương bóng nguyệt mờ
Cầu Phong đốm lửa giấc sầu mơ
Hàn Sơn khuất bãi Cô Tô vắng
Đêm điểm hồi chuông khách sững sờ...
Cầu Phong đốm lửa giấc sầu mơ
Hàn Sơn khuất bãi Cô Tô vắng
Đêm điểm hồi chuông khách sững sờ...
Thu-Tứ:
Trăng xế, quạ kêu, sương kín trời
Đèn lu, cây tối, ngủ buồn ơi
"Nửa đêm" chuông đánh, chùa đâu lạ
Tỉnh giấc ai ơi, sắp sáng rồi!
Đèn lu, cây tối, ngủ buồn ơi
"Nửa đêm" chuông đánh, chùa đâu lạ
Tỉnh giấc ai ơi, sắp sáng rồi!
Dịch ra thơ lục bát:
Trần-Trọng-Kim:
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi,
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co.
Con thuyền đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co.
Con thuyền đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Tản-Đà:
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Thu-Tứ:
Quạ kêu trăng xế trời sương,
Đèn lu cây tối, chập chờn tỉnh mê.
Nửa đêm thức giấc nằm nghe,
Chùa đâu chuông đánh xa đưa tận thuyền.
Đèn lu cây tối, chập chờn tỉnh mê.
Nửa đêm thức giấc nằm nghe,
Chùa đâu chuông đánh xa đưa tận thuyền.
Bến Cô-Tô
(Hoa Huỳnh chuyển)
ăn trộm cả chuông chùa nữa
Trả lờiXóa