Thứ Năm, 13 tháng 7, 2017

Về bài thơ Cẩm sắt của Lý Thương Ẩn... Ngân Triều chú giải

Về bài thơ Cẩm sắt của Lý Thương Ẩn...
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
Chỉ có hai câu mà họ Lý đã đưa người đọc đến ngay ngưỡng cửa của những dĩ vãng xa xôi, sâu lắng...
                             *


Tượng của Lý Thương Ần, 李商隱 [813-858]  (Từ  Google )
  Tiểu sử Lý Thương Ẩn,李商隱 [813-858], tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khê Sơn. Người Huyện Hà Nội, nay (1957) là phủ Hoài Khánh, Tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông sinh năm thứ 8, đời Đường Hiến Tông, hiệu Nguyên Hòa, năm 813 và mất năm thứ 8, đời Đường Huyền Tông, hiệu Đại Trung, năm 858, hưởng dương 45 tuổi, (theo truyền thống Á Đông cộng thêm 1 tuổi), tức là 46 tuổi.
Lúc thiếu thời, nhờ giỏi văn thơ nên được Lệnh Hồ Sở yêu, cho phép giao du với các con của mình.
Năm 837, 25 tuổi, nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào, con của Lệnh Hồ Sở, Thương Ẩn được chấm dỗ Tiến sĩ. Khi ấy, Vương Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương, đối thủ chính trị của Lệnh Hồ Sở cũng mến tài của Thương Ẩn, cho ông giữ chức thư ký và gã con gái cho. Vì chuyện nầy, Lệnh Hồ Đào cho ông là người vong ân.
Sau khi Mậu Nguyên qua đời, Thương Ẩn có đến kinh sư nhưng triều đình không ai tiến cử làm việc gì cả.
Sau đó, nhờ Trịnh Á, Thương Ẩn được bổ làm Phán quan. Khi Trịnh Á bị biếm ra đất Lĩnh Biểu, Thương Ẩn cũng đi theo. Sau ba năm, về triều, được bổ làm huyện Tào tại Kinh Triệu.
Khi Lệnh Hồ Đào lên làm Tể Tướng, ông có dâng thơ trần tình nhiều lần nhưng Hồ Đào không xem xét chi cả.
Cuối cùng, Liễu Trọng Hĩnh, trấn thủ miền Đông Thục dùng ông làm Tiết Độ Phán quan kiêm Hiệu Công Bộ viên ngoại lang.
Về sau, họ Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức.
Ông trở về đất Oanh Dương, bệnh nặng, qua đời.
                                 *
Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Đình Quân và Độ Mục. Người đương thời mến mộ, còn gọi ông vớicái tên Ôn Lý và Lý Đỗ.
Tương truyền Thương Ẩn đã yêu nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương và các cung nữ Lư Phi Loan, Khinh Phụng. Những bài thơ Vô đề do ông sáng tác đều do cảm hứng từ những mối tình bí ẩn nầy.
Về tác phẩm:
-Phàn Nam Giáp tập (20 quyển)
-Ất tập (20 quyển)
-Ngọc Khê Sinh thi ( 3 quyển)
= Phú (1 quyển) và (1) quyển văn.
*
Vương An Thạch khen thơ ông có cái vẻ tài tình của thơ Đỗ Phủ.
Đời Tống, Dương Ức và Lư Tử Nghi mô phỏng thơ ông, soạn ra tập thơ Tây Côn thù Xướng nên thơ ông còn có tên là Tây Côn Thể.


Bức tranh có bài thơ Cẩm sắt của Lý Thương Ẩn, Từ Google
                              *
Cẩm sắt

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền, (1)
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên. (2)
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp, (3)
Vọng đế xuân tâm thác đỗ quyên. (4)
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ, (5)
Lam điền nhật noãn ngọc sinh yên. (6)
Thử tình khả đãi thành truy ức, (7)
Chỉ thị đương thì dĩ võng nhiên (8)
Lý Thương Ẩn [813-858]
.*
Bản chữ Hán Ngân Triều soạn:
錦 瑟
錦 瑟 無 端 五 十 弦
一 弦 一 柱 思 華 年
荘 生 曉 夢 迷 蝴 蝶
望 帝 春 心 託 杜 鵑
滄 海 月 明 珠 有 淚
籃田日暖玉生烟
此情可待成追憶
只是當時已惘然
李商隱 [813-858]
*
Chú giải
Cẩm sắt, 錦 瑟 : Có người dịch là đàn gấm, nhưng trên thực tế là cây đàn sắt có chạm trổ. Ðàn sắt là loại đàn lớn làm bằng gỗ cây ngô đồng. Ðàn sắt và đàn cầm là hai loại đàn cổ, chữ cầm sắt3 ,loan phụng hòa minh, sắt cầm hảo hiệp: 鸞 鳯和 鳴/ 瑟 珡 好 合 thường dùng nhằm chỉ vợ chồng hoà hợp, như đàn sắt đàn cầm hoà nhau. Theo Daijigen (Ðại từ nguyên), cẩm sắt là mỹ danh của cây đàn sắt.
Vô đoan : 無 端 do đâu, từ đâu, không có lý do.
Ngũ thập huyền : 五 十 弦 Theo truyền thuyết, khi Tố Nữ gẩy đàn sắt tế trời theo lệnh vua Phục Hy, đàn này có 50 dây. Nhưng vì tiếng đàn quá ai oán não nùng, Phục Hy cấm không cho sử dụng đàn này nữa. Sau đó, vì dân chúng vẫn không chịu tuân lệnh, Phục Hy mới cho phép dùng nửa số dây, từ đó đàn sắt chỉ có 25 dây (theo ‘Phong thiền thư’, Sử ký của Tư Mã Thiên; hoặc ‘Giao tự chí’, Hán thư của Ban Cố đời Hậu Hán).
Trụ : 柱 trụ; trục; hay ‘con nhạn’ đỡ dây đàn (huyền).
Hoa niên : 華 年 Thanh xuân; tuổi trẻ; thời kỳ tươi đẹp nhất của đời người,
Tư, tứ : 思 nghĩ, nhớ; ở đây dùng theo nghĩa ‘gợi nhớ’. Mỗi dây đàn, mỗi trục, chạnh nhớ lại tuổi hoa niên. Ðọc hai câu mở đầu, ta không khỏi liên tưởng đến hai câu hát ru con Việt Nam:
Hai tay cầm bốn tao nôi,
Tao thẳng tao dùi, tao nhớ tao thương
Ca dao (Nguyễn Xuân Kính, Đăng Nhật Phan,Kho tàng ca dao người Việt, NXB Văn hoá thông tin, 2001) – tuy dân dã mộc mạc nhưng có sức gợi cảm cũng vô cùng mãnh liệt.
Trang sinh : 荘 生 tức Trang Chu, nhà tư tưởng thời Chiến Quốc. Sách Trang Tử ghi lại những ngôn thuyết của Trang Tử cùng những người cùng phái, chủ trương là mọi việc trên đời như lớn nhỏ, khôn dại, sống chết, v.v. chẳng có gì khác nhau cho lắm; xem vô vi, tự nhiên là đạo đức cao nhất. Thuyết giải về sự khó phân biệt giữa tỉnh và mộng, sống và chết, thiên ‘Tề vật luận’ trong Trang Tử viết :
Ngày xưa, Trang Chu chiêm bao thấy mình hóa bướm bay nhởn nhơ khắp nơi, tự lấy làm thích chí, quên mình là Chu. Bất giác tỉnh giấc, thấy hình thù mình vẫn là Chu. Không biết Chu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm bao là Chu!(Hoài nghi là bản chất của triết học)
Vọng Đế : 望 帝 đế hiệu của vua Ðỗ Vũ nước Thục cuối đời Chu (nên còn gọi là Thục Đế). Tương truyền Vọng Đế ra lệnh bộ hạ là Biết Linh đi cứu lũ ở xa nhằm thừa dịp tư tình với vợ của Biết Linh. Sau đó Vọng Đế tự hổ thẹn về hành vi bất chính của mình, từ ngôi rồi mai danh ẩn tích thua buồn mà chết. Hồn biến thành con chim cuốc,hay đổ quyên. Tiếng kêu tiếc nước rất bi ai. Mỗi năm cứ vào tháng hai âm lịch (Vọng Đế rời đất Thục cũng vào tháng này), đêm đêm chim đỗ quyên lại cất tiếng sầu thảm. Bởi vậy, người nước Thục mỗi lần nghe tiếng chim đỗ quyên lại nhớ đến Vọng Đế.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia,
Qua Đèo Ngang, Bà Huyện Thanh Quan.
                     *
Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
Thâu canh ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ!
Cuốc kêu cảm hứng, Nguyễn Khuyến
                      *
Xuân tâm : 春 心 , lòng xuân, còn có nghĩa như ‘xuân tình’ : 春情tình yêu trai gái, tình yêu lứa đôi. Nguyễn Du cũng đã dùng chữ ‘xuân tình’, 春 情,tình mùa Xuân, tình của tuổi xuân thì, khi phỏng dịch đoạn thơ này trong Truyện Kiều:
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 3201-3202
                     *
Thương hải : 滄 海 Biển xanh, còn có nghĩa là biển rộng, biển cả. Thương hải cũng có khi dùng để chỉ tên một biển hư cấu ở cõi tiên.
Nguyệt minh châu hữu lệ : 月 明 珠 有 淚 Theo Văn tuyển (Lý Thiện chú thích), ‘khi trăng đầy, trai có ngọc (châu), khi trăng khuyết trai không có ngọc’ (nguyệt mãn tức châu toàn, nguyệt khuy tức châu khuyết). Theo cuốn Biệt quốc động minh ký thời Lục Triều, ngày xưa có người lặn xuống đáy biển tìm ngọc, lạc vào cung điện của nhân ngư, tìm được bảo ngọc do nước mắt của nhân ngư đọng lại. Ngoài ra, câu này còn có thể hiểu theo điển tích ‘thương hải di châu’ (hạt ngọc bỏ rơi trong biển cả), ngụ ý là người có tài mà không có chỗ thi thố.
Ngoài ra, thương hải còn có thể hiểu theo thành ngữ thương hải, tang điền, 蒼海桑田, biển xanh, ruộng dâu hay bể dâu, chỉ những biến cố ngoài sức tưởng tượng của con người, thương hải biến vi tang điền 蒼海變爲桑田, Biển xanh hóa thành nương dâu, bể dâu hay dâu bể
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 3-4
                *
Cơ trời dâu bể đa đoan,
Một nhà để chị riêng oan một mình.
ĐTTT, Nguyễn Du câu 715-716
               *
Lam điền : 籃田tên một ngọn núi ở Thiểm Tây (Lam điền sơn), còn gọi là Ngọc sơn, nổi tiếng có nhiều ngọc đẹp và quý. Theo Sơn hải kinh, Ngọc sơn là nơi bà tiên Tây Vương Mẫu ở – chi tiết này khiến người đọc liên tưởng đến một cõi tiên hư cấu, giống như “Thương hải” trong câu 5.10
Ngọc sinh yên : 玉生烟 Theo Lục dị truyện, con gái Ngô Phù Sai là Tử Ngọc yêu
người lính hầu là Hàn Trọng nhưng không được Ngô vương chấp thuận, mang mối bi tình xuống tuyền đài. Một sáng, khi Ngô vương đang dùng lược chải tóc, nhìn ra vườn thấy có viên ngọc lớn màu tím chiếu sáng, phu nhân nghe nói chạy ra vườn, khi vừa ôm chầm hòn ngọc thì ngọc tan thành khói biến mất. Lại có thuyết cho rằng tứ thơ trong câu này lấy từ ý câu sau đây của nhà thơ Ðái Thúc Luân (732-789) thời Trung Ðường :
Thi gia chi cảnh như Lam Ðiền
nhật noãn lương ngọc sinh yên,
khả vọng nhi bất khả trí ư mi tiệp chi tiền dã11
詩 家 之 景 如 籃田
日暖良玉生烟
可 望 而 不可 知於眉睫之前也
(Cảnh đẹp đối với nhà thơ, tựa như viên ngọc quý bốc tan thành khói khi Lam Ðiền hửng nắng, chỉ có thể đứng nhìn từ xa chứ không được lại gần)
Khả đãi, 可待: khả đãi trợ từ có nghĩa là: phải, nên, đáng, có thể, chắc có thể, có lẽ, hình như…; hoặc là trợ từ nghi vấn: làm sao có thể…
Võng nhiên : 惘然 không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha.
Câu 7 có thể dịch là Tình này có thể trở thành một cái gì để ghi nhớ;
hoặc
tình nầy còn một chút gì, để nhớ để thương.
Câu 8 ‘Thì lúc ấy thời gian đã phôi pha tình duyên đó cũng đã nhạt nhòa.
« les plus désespérés sont les chants les plus beaux.
Et j'en sais d'immortels qui sont de purs sanglots »,
Alfred de Musset, La nuit de Mai.
                       *
Tuyệt vọng nhất là những tiếng ca đẹp nhất.
Và tôi hiểu những điều bất tử là những thổn thức trong veo.
                       *
Tuyệt vọng nhứt là tiếng ca đẹp nhứt,
Bất hủ như những thổn thức chân thành.
                       *
Dịch nghĩabài thơ Cẩm sắt:
Cây đàn gấm
Các cụ xưa thường cho bài nầy rất khó hiểu. Thật ra là bài thơ gồm những hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ. Giải được những ẩn dụ hợp lý ấy ra, tức là hiểu được tiếng lòng của tác giả.
                                *
Cẩm sắt là một loại nhạc cụ bằng dây, đàn không có đầu, có 50 dây, mỗi dây buộc vào một trụ.
Mỗi dây mỗi trụ như gợi nhớ về lứa tuổi hoa niên ngày xưa.
Có lúc, giai điệu tiếng đàn êm ả như Trang sinh mơ giấc buổi sáng, thấy hóa thành con bươm bướm bay lượn thanh thản, nhởn nhơ.
Có khi não nuột như tiếng kêu bi thiết của chim đỗ quyên thác lòng Vua Thục tiếc thương nước mất.
Còn tưởng, như âm vang thánh thót của những hạt châu nhỏ lệ, chạm nhau,
khi trăng sáng đầy trời, trên biển xanh xao động mênh mông.
Lại còn tưởng như trời hửng nắng ấm, chiếu tan những viên ngọc bốc khói ở núi Lam Điền.
Những nỗi niềm ấy, còn chăng là những ký ức xa mờ,
Mà lúc đương thời ta đã phôi pha, hờ hững, vô tâm.
                    *
Bản dịch bài 1 của Vĩnh Sính:
 

Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày !
                 *
Bản dịch bài 2 của Vĩnh Sính:
 

Cẩm sắt vì đâu ngũ thập huyền ?
Mỗi dây mỗi trục gợi hoa niên.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế xuân tình gửi tiếng quyên.
Bể cả trăng thanh châu đẫm lệ,
Ðồng xanh nắng ửng ngọc tan liền.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Khi đã qua rồi thuở lứa duyên !
                 **
Bản dịch của Huỳnh Minh Đức
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:35
 

Cẩm sắt vì sao ngũ thập huyền
Mỗi dây mỗi trụ, nhớ hoa niên
Trang Chu tỉnh mộng, mơ hồ điệp
Vọng đế lòng xuân, gởi Đỗ quyên
Trăng sáng biển xanh, châu đổ lệ
Khói vương nắng ấm, ngọc Lam Điền
Tình này sớm tạo niềm nhung nhớ
Là buổi đầu tiên, chút nỗi niềm
                   *
Bản dịch của Nguyễn Hùng Lân
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:36
 

Đàn năm mươi sợi tơ lòng
Mỗi dây khảy lại nhớ nhung thuở nào
Trang sinh mộng bướm sớm nao
Lòng xuân Thục Đế gởi vào đỗ quyên
Trăng soi biển lệ châu miền
Nắng lên hạt ngọc Lam Điền khói xây
Tình này đáng lẽ đẹp đây
Tiếc thay ngày nọ đã đầy đau thương
                    *
Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu
Gửi bởi Vanachi ngày 11/07/2005 19:37
 

Đàn gấm gồm năm chục sợi liền,
Mỗi dây mỗi trụ nhớ hoa niên.
Trang Sinh mộng sớm ngờ thân bướm,
Vọng Đế lòng xuân gửi tiếng quyên.
Trăng sáng lệ giàn châu đại hải,
Nắng xông ngọc bốc khói Lam Điền.
Tình xưa hãy để thành lưu niệm,
Một thưở yêu đương luống hão huyền!
Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hoá, 1997
                  *
Bản dịch của (Không rõ)
Gửi bởi ngất ngưởng ngày 10/08/2010 05:47
 

Cẩm sắt vì đâu năm chục dây ?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục Đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng thanh châu nhỏ lệ,
Lam Điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ,
Lúc đã tàn phai với tháng ngày!
                  **
Bản dịch của Huyền Lâm
Gửi bởi HuyenLam Tran ngày 14/02/2013 00:37
 

Huyền ảo năm mươi sợi dây tơ
Từng dây nốt phím gợi ngày thơ
Trang Chu xưa ngủ mơ thành bướm
Quyên vọng lòng xuân nhớ cõi bờ
Biển buồn trăng sáng khơi dòng lệ
Lam Điền nắng ngọc khói như mơ
Tình xưa nay đã thành ký ức
Nhưng mãi nhớ thương đến tận giờ
                        *
Bản dịch của Huyền Lâm
Gửi bởi HuyenLam Tran ngày 14/02/2013 00:50
 

Năm mươi huyền ảo đàn cầm
Từng dây từng nốt gợi thầm ngày thơ
Bướm xưa Trang Tử còn mơ
Quyên sầu Thục Đế cõi bờ không quên
Lệ sầu nhìn biển trăng lên
Lam Điền khói quyện phủ trên nắng ngày
Tình xưa nào dễ phôi phai
Vẫn thương nhớ bóng hình ai đến giờ
                 *
Bản dịch của Cổ Phong
Gửi bởi Cổ Phong ngày 25/04/2013 21:17
 

Cẩm sắt không dưng năm chục dây
Mỗi dây mỗi trụ nhớ những ngày
Trang Sinh mộng đẹp mơ hồ điệp
Vọng Đế lòng xuân gửi đỗ quyên
Trăng soi thương hải châu đổ lệ
Nắng sưởi Lam Điền ngọc nhả mây
Tình này đành đợi thành ký ức
Chỉ tội ban xưa lỡ ngẩn ngơ
                  *
Bản dịch của Trần Trọng San
Gửi bởi Vanachi ngày 03/01/2014 22:22
 

Cây đàn năm chục đường dây
Mỗi dây mỗi trụ nhớ ngày còn xanh
Mơ màng giấc bướm Trang Sinh
Lòng xuân Vọng Đế đỗ quyên gửi vào
Biển xanh trăng chiếu lệ châu
Ngọc phơi nắng ấm khói cao Lam Điền
Tình này đợi nhớ nên niềm
Thế nhưng đã ngậm ngùi duyên bấy giờ

                 *
Nguyễn Du đã mượn tứ câu này để tả tiếng đàn của Thúy Kiều lúc gặp lại Kim Trọng thể hiện qua 4 câu Thực-luận trên:
Khúc đâu đầm ấm dương hòa
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh ?
Khúc đâu êm ái xuân tình
Ấy hồn Thục Đế hay hình đỗ quyên ?
Trong sao trăng rỏ duềnh quyên !
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông
(ĐTTT Nguyễn Du câu 3199-3204)
                     *
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Gửi bởi Vanachi ngày 03/01/2014 22:23
 

Đàn cẩm sắt mấy chục dây
Một dây một trục nhớ ngày thanh niên
Trang Sinh hồ điệp mộng quên
Lòng xuân Thục Đế đỗ quyên gửi mình
Trăng soi châu đỏ duềnh xanh
Lam Điền trời ấm ngọc lành khói bay
Tình kia còn nhớ có ngày
Hiện nay chỉ thấy gắt gay nỗi lòng
Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995
                    *
Bản dịch của Phạm Thanh Cải
Gửi bởi Phạm Thanh Cải ngày 26/05/2014 19:52
 

Cây đàn năm chục dây tơ
Mỗi dây một trụ hoa thưa phím đàn
Trang Sinh hồn bướm mơ tiên
Nhớ về Thục Đế đỗ quyên gọi hè
Biển xanh trăng sáng bốn bề
Lam Điền ngọc sáng vọng về ngọc trai
Tình nay còn nhớ dằng dai
Nỗi lòng thoáng chốc nhạt phai hay là
                  *
Bản dịch của Nguyễn Minh
Gửi bởi Lâm Xuân Hương ngày 07/06/2016
   

Đàn gấm vì sao năm chục dây?
Mỗi dây mỗi trụ nhớ thơ ngây
Trang sinh mộng sớm mơ thành bướm
Vọng đế hồn xuân nhập cuốc đây
Trăng sáng biển xanh soi ngọc khóc
Lam Điền nắng ấm khói châu bay
Tình kia có thể thành nhung nhớ
Chỉ tiếc chán chường ngay lúc này.
          *
Ngân Triều diễn thơ (1):
Cẩm sắt đàn xao động,
Mỗi trụ một đường tơ,
Năm mươi dây ngẩn ngơ.
Chạnh lòng thời hoa mộng…
                *
Tiếng trong nghe êm ả,
Mơ sáng nào Trang sinh.
Hóa bướm bay xinh xinh,
Mộng tan, ngã, phi ngã? (a)
               *
Tiếng đục nghe đê mê,
Buồn ngân ngất lê thê.
Miên man hồn Thục Đế,
Mong nước cũ quay về.
                *
Nào âm vang thánh thót,
Tiếng ngọc trong thủy tinh
Trăng sáng biển mông mênh,
Châu bồi hồi giọt ngọc.
                 *
Âm vực nào tha thiết,
Trời hửng nắng vui thay!
Ngọc Lam tan khói biếc,
Tuyệt vời khắp trời mây!
                *
Ơi nhớ thuở thương thầm!
Ngàn năm chôn ký ức.
Tiếc biết bao rạo rực,
Thời vụng dại vô tâm.
                *
(a) ngã, phi ngã?, 我 非 我 , hoài nghi; phân vân: chính là ta hay không phải là ta chăng?
                     *
Ngân Triều diễn thơ (2):
Mỗi trụ một dây, cẩm sắt huyền,(1)
Chạnh lòng tiếc nhớ tuổi hoa niên. (2)
Trang sinh mơ sáng (3) tiêu dao bướm,
Thục đế hồn tan khắc khoải quyên.
Dâu bể, trăng thanh(4), châu nhỏ lệ,
Nắng vàng khói ngọc quyện Lam Điền.
Nỗi niềm vương vấn xa mờ tủi,
Sao lúc đương thời chẳng có duyên?
                   *
(1) cẩm sắt huyền 錦 瑟 弦 dây đàn của đàn cẩm sắt
(2) Hoa niên:花 年 , tuổi trẻ, tuổi tươi đẹp nhất đời người.
(3) mơ sáng = hiểu mộng: 曉 夢 giấc mơ buổi sáng.
(4) trăng thanh = nguyệt quang: 月 光 , ánh trăng tỏa sáng khắp trời.
                  *
Lời thơ trong bài “Cẩm sắt” đượm nét buồn man mác, trải rộng mênh mông trong không gian hữu hạn, thời gian vô cùng, chuyên chở một tình sầu muôn thuở. Có rất nhiều giả thuyết khác nhau về hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Phải chăng tiếng lòng của tác giả muốn bộc trực là bản chất mộng ảo, ngắn ngủi, mong manh của cuộc đời và nuối tiếc về tình yêu đã đến trong tuổi hoa niên mà vô tình đã lỡ để tình yêu ấy bay tận cuối trời xa.
Thân mến,
Ngân Triều


1 nhận xét:

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ (Dỗ Chiêu Đức)

  Tạp Ghi và Phiếm Luận :                Những Thành Ngữ THÔNG DỤNG, LẠ TAI mà LÝ THÚ                                       Ăn x ổi  ở th ì,...