Hoàng
đế Duy Tân sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý 1900, là một trong những
bậc quân vương nổi bật nhất của triều đình nhà Nguyễn. Mặc dù chỉ tại vị
10 năm nhưng ông đã đi vào lòng dân tộc như một vị vua trẻ thông minh
thiên bẩm, có ý chí mạnh mẽ, và đặc biệt là có tấm lòng ái quốc yêu dân.
Dưới
đây là một vài giai thoại thú vị kể về vị hoàng đế từ những ngày niên
thiếu cho tới năm cuối đời, qua đó thể hiện khí phách anh hùng của một
bậc đế vương.
7 tuổi: Một ngày lên ngai báu
Sau
khi ép Thành Thái – vị hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn thoái vị, khâm sứ
Pháp quyết định đưa một trong số những người con của Thành Thái lên
ngôi.
Hôm
ấy, khâm sứ Fernand Ernest cầm danh sách các hoàng tử vào cung chọn
vua, đến lúc điểm danh thì thiếu mất tiểu hoàng tử Vĩnh San. Thì ra cậu
bé đang chui dưới gầm giường bắt dế, áo quần xộc xệch, mặt mày lem luốc.
Thị vệ bèn vội vàng đưa Vĩnh San ra trình diện quan Pháp. Viên khâm sứ
trông thấy tiểu hoàng tử có vẻ ngờ nghệch thì hài lòng lắm, ngay lập tức
chọn cậu làm người kế vị ngai vua.
Nhưng
người Pháp không ngờ là, tiểu hoàng đế mà họ tưởng rằng có thể dễ bề
sai khiến kia đã đổi thay hoàn toàn ngay trong ngày đăng cơ. Cậu bé mới 7
tuổi nhưng lại tỏ ra chững chạc đường hoàng, nói tiếng Pháp với các
quan Tây bằng một vẻ tự tin hiếm có.
Sau
này, thầy dạy tiếng Pháp cho nhà vua là tiến sĩ Ébérhardt cũng nhận
xét: “Vị hoàng đế này sẽ là một nhân vật quan trọng”. Còn theo lời của
ông Brieux thuộc Hàn lâm viện Pháp thì: “Cậu vua con nói tiếng Pháp cũng
khá”, nhưng “đôi khi lại thốt ra những câu nói xấc xược”. Những câu nói
‘xấc xược’ ấy chính là những lần vua thể hiện thái độ cứng rắn và quyết
tâm chống Pháp đến cùng.
8 tuổi: Ta chỉ nhận 200 đồng mà thôi
Năm
1908, ở Trung Kỳ nổ ra vụ kháng thuế, dân chúng chiếm cầu Tràng Tiền
suốt nhiều ngày mà quân Pháp không sao dẹp được. Nhưng khi xe vua ngự
giá ngang qua, mọi người lại kính cẩn lùi sang hai bên đường cho xe đi.
Vua
Duy Tân thấy cảnh dân chúng đói khát đang đòi được giảm thuế, ngài ứa
nước mắt nói với triều thần: “Trong nước hay có loạn là vì dân thiếu
thốn. Lương của ta 500 đồng mỗi tháng, từ nay ta chỉ nhận 200 đồng thôi,
còn 300 đồng ta giao cho các thầy đem giúp dân cứu nước”.
Ảnh chụp vua Duy Tân năm 1907. Bức hoành sau lưng ghi bốn chữ “Tiên cấm trường xuân”.
12 tuổi: Vương Tam – Tây Tứ
Năm
1912, viên khâm sứ Mahé của Pháp mở chiến dịch ráo riết tìm vàng. Mahé
lấy tượng vàng đúc trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào mộ lăng vua
Tự Đức tìm bảo vật, sau lại cho người đào xới trong cung điện để tìm kho
báu. Vua Duy Tân bèn ra lệnh đóng cửa hoàng cung phản đối người Pháp,
sẵn sàng tuyệt giao với các quan Tây. Cuối cùng, Pháp phải triệu quan
toàn quyền Albert Sarraut từ Hà Nội vào Huế giải quyết, vua mới hạ lệnh
cho mở hoàng thành.
Cũng
cùng năm ấy, Duy Tân được mời tới dự tiệc ở tòa khâm sứ Trung Kỳ. Một
viên cố đạo Pháp vừa thông thạo tiếng Việt lại rất giỏi chữ Hán đã đề
nghị cùng nhà vua đối chữ.
Viên
cố đạo viết vào mẩu giấy hai chữ: “Vương Tam” (王三), ý muốn nói: “Rút
ruột vua, tam phân thiên hạ”. Chữ “Vương” là vua, nếu rút đi nét sổ dọc ở
giữa sẽ tạo thành chữ “Tam”, ngụ ý chia nước ta thành ba kỳ Bắc, Trung,
Nam để dễ bề cai trị.
Vế
ra khá hiểm hóc lại xoáy vào nỗi đau của dân tộc, nhưng vua Duy Tân
không nao núng liền phê vào đó hai chữ: “Tây Tứ” (西四), như một lời khẳng
định: “Chặt đầu Tây, tứ hải giai huynh”. Chữ “Tây” gồm chữ “Tứ” cùng
với hai nét dọc và một nét ngang ở trên đầu. Nếu bỏ đi phần đầu sẽ tạo
thành chữ “Tứ”, ý là tứ hải giai huynh, bốn bể đều là anh em, chỉ khi
đánh đuổi kẻ xâm lăng mới có thể có được tình giao hảo bốn phương.
Thoạt
trông cứ ngỡ nhà vua cùng với viên cố đạo đang chén trà đối ẩm, nhưng
kỳ thực lại là cuộc đấu trí thông qua ngôn từ. Và bằng vế đối sắc sảo
của mình, vị vua trẻ An Nam đã dõng dạc thể hiện quyết tâm chống Pháp.
16 tuổi: Lấy giúp tôi, nhưng phải lấy cho trọn bộ!
Năm
1916, vua Duy Tân tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp cùng với Việt Nam
Quang phục Hội. Kế hoạch bại lộ, vua bị người Pháp bắt giam ở đồn Mang
Cá. Mặc cho cả quan khâm sai và viên toàn quyền hết lời thuyết phục ngài
trở lại ngai vàng, ngoan ngoãn làm một vị vua bù nhìn cho Pháp, nhưng
vua vẫn kiên quyết chối từ. Ngài nói: “Các ông muốn tôi làm vua nước Nam
thì phải coi tôi là vị vua trưởng thành và có quyền tự do hành động”.
Theo
báo L’Echo Annamite (Tiếng vọng An Nam), vị vua trẻ chỉ chấp nhận trở
lại ngai vàng khi được “nắm giữ đầy đủ các quyền hành của một quốc vương
tự do và vĩ đại”. Quyết định ấy của nhà vua sau này được sử sách triều
Nguyễn mô tả là: ‘Vứt bỏ ngôi báu như chiếc giày rách, dấn thân vào gió
bụi bôn ba’.
Trước
ngày vua lên tàu để bắt đầu hành trình đi đày tới đảo La Réunion ở Ấn
Độ Dương, đại diện tòa khâm sứ Pháp đến thăm và hỏi: “Hiện kho nội vụ
vẫn lưu trữ quỹ tiền riêng của nhà vua, vậy ngài có cần lấy ra một ít để
mang theo không?”.
Vua
khẳng khái đáp: “Tiền đó là để dành cho ông vua cai trị nước Nam, chứ
không phải của tôi – một người tù. Tôi không cần có tiền riêng”.
Đại
diện tòa khâm sứ lại hỏi: “Tôi biết ngài đam mê đọc sách, tủ sách của
ngài chất đầy rất nhiều sách quý. Ngài có muốn lấy một bộ nào đọc cho
khuây khỏa không?”.
Vua
vui vẻ gật đầu: “Sách tôi rất thích. Vậy phiền ông lấy giúp tôi bộ
‘Lịch sử cách mạng Pháp’ (Histoires de la Révolution Française) của
Michelet, nhưng phải lấy cho trọn bộ!”.
Viên
đại diện tòa khâm sai mặt biến sắc, không ngờ ngay trước cuộc đi đày
tưởng chừng như vô vọng, vua vẫn nung nấu quyết tâm chống Pháp tới cùng.
Vua Duy Tân năm 1930 (ảnh: Wikipedia).
25 tuổi: Còn nhiều vận hội giữa năm châu
Trong
những năm đi đày trên đảo La Réunion, cựu hoàng Duy Tân sống một cuộc
đời thiếu thốn, phải chật vật kiếm sống từng đồng, nhưng vẫn không ngừng
nuôi hy vọng trở về cứu nước: Khi thì ông gửi thư đến báo L’Humanité bày
tỏ nguyện vọng nước Việt Nam sẽ trở thành một quốc gia độc lập như mọi
quốc gia châu Âu khác, khi lại gửi đơn lên Bộ Thuộc địa Pháp xin được ân
xá, lúc lại tình nguyện gia nhập quân đội để được rời La Réunion, thoát
khỏi cảnh đi đày…
Bên
cạnh đó, vua âm thầm học hỏi và nghiên cứu kỹ thuật vô tuyến điện,
thiết lập một trạm truyền phát tin để theo dõi tình hình chiến sự trên
thế giới. Nhờ đó ông có thể mở toang cánh cửa chật hẹp của hòn đảo heo
hút giữa đại dương, liên lạc được với thế giới bên ngoài.
Năm 1925, nghe tin Khải Định qua đời, vua Duy Tân trên đảo La Réunion đã ngậm ngùi viết đôi câu đối:
“Ông vội bỏ đi đâu, bỏ tiền, bỏ bạc, bỏ vợ, bỏ con, bỏ thầy tu, hát bội, bỏ hết trần duyên trong một lúc. Tôi may còn lại đó, còn trời, còn đất, còn nước, còn non, còn anh hùng, hào kiệt, còn nhiều vận hội giữa năm châu”.
Khác
với hai vị vua An Nam cùng buông xuôi chấp nhận kiếp sống lưu vong là
Hàm Nghi và Thành Thái, hoàng đế Duy Tân lại thể hiện một ý chí mạnh mẽ
và niềm tin không bao giờ thay đổi. Đảo La Réunion như chiếc lồng chật
hẹp giam giữ cánh đại bàng muốn được vùng vẫy giữa thiên khung, nhưng
vua vẫn lạc quan tin rằng: Chỉ cần còn sống là vẫn còn cơ hội.
Và
quả thực cơ hội ấy cuối cùng cũng đến, vua được phê duyệt vào bộ binh
Pháp, rời khỏi chốn lưu đày, lên đường sang châu Âu. Ngài đã trực tiếp
gặp tướng De Gaulle ở Paris, và cùng ông thảo luận về kế hoạch thống
nhất Việt Nam. Chỉ tiếc là kế hoạch ấy mãi mãi không thể thực hiện, một
vụ tai nạn máy bay đã chôn vùi tất cả, khiến đại bàng vừa mới giang đôi
cánh đã phải vùi thân dưới một nắm tro tàn.
10
năm tại vị, 45 năm cuộc đời, lịch sử không ưu ái dành cho vua Duy Tân
phút huy hoàng trên ngôi báu, nhưng lại khiến ông sống mãi trong lòng
dân tộc Việt. Cuộc đời ông vang vọng hai chữ “Tự do” – niềm khao khát mà
cho tới ngày hôm nay, chúng ta vẫn không ngừng tìm kiếm, không ngừng
ngóng chờ. Hai chữ ấy đã viết nên huyền thoại Duy Tân, mà sau này con
trai ông – hoàng thân Claude Vĩnh San – đã ví như là: “Một khúc đoạn
lịch sử, một chốc lát vĩnh hằng”.
Một tài liệu lịch sử oai hùng, cảm động
--
Đây là những tư liệu rất quý, cảm ơn tác giả
Trả lờiXóa