Con người liệu có thể sống mà không cần não? Câu chuyện tưởng như hoang đường này lại thật sự tồn tại. Một học sinh đạt điểm xuất sắc với tấm bằng danh dự giải nhất môn toán, có chỉ số IQ 126 và có khả năng sống hòa hợp với xã hội bình thường. Tuy nhiên, cậu học sinh này không có não!
Bài viết của Tiến sĩ Đổng Vũ Hồng, chuyên gia về virus học và bệnh truyền nhiễm châu Âu, thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả.
Con người liệu có thể sống mà không cần não? Câu chuyện tưởng như hoang đường này lại thật sự tồn tại. (Ảnh: Shutterstock)
Vào năm 1980, tạp chí Science đã đăng một bài báo về trường hợp thực tế đáng kinh ngạc này.
Đầu của cậu học sinh trông lớn hơn bình thường, do vậy đã thu hút sự chú ý của bác sĩ, sau đó họ đã tiến hành chụp cắt lớp não. Kết quả thật bất ngờ, trong khi não người bình thường có độ dày trung bình 4,5 cm thì não của cậu học sinh này chỉ dày 1mm – gần như không có não!
Một nửa số “người thiếu não” có chỉ số IQ là 100
Trường hợp như học sinh này không phải là hy hữu.
Ông John Lorber, giáo sư thần kinh học tại Đại học Sheffield (1915-1996), là một chuyên gia về não úng thủy, ông đã thống kê một cách có hệ thống hàng loạt trường hợp tương tự. 600 trẻ em bị não úng thủy đã được khảo sát, một số trẻ bị não úng thủy nhẹ, một số trẻ bị não úng thủy nặng và 95% não bộ bị chiếm dụng bởi “nước”.
Não úng thủy là gì? Dịch não tủy là một chất lỏng trong suốt được tổng hợp và lưu thông trong não và tủy sống. Tuy nhiên, ở một nhóm người, dịch não tủy không thể lưu thông bình thường, nó bị tích tụ trong não và gây ra tình trạng não úng thủy. Phần còn lại của não liên tục mỏng đi dưới áp lực của chất lỏng, khiến hơn 50% đến 95% thể tích não được thay thế bằng dịch não tủy. Vì vậy những người này hầu như không có não.
không có não
Tuy nhiên, Giáo sư Lorber nhận thấy trong số những đứa trẻ bị não úng thủy nặng nhất, chiếm đến một nửa là có chỉ số IQ lớn hơn 100, cuộc sống và học tập không khác gì người bình thường.
Ý thức của con người đến từ đâu?
Điều đặc biệt là những người bị não úng thủy, não bị teo nhỏ nghiêm trọng này rất nhiều người không chỉ có các kỹ năng xã hội bình thường mà còn đạt thành tích xuất sắc trong học tập.
Mặc dù kết quả nghiên cứu của Giáo sư Lorber không chứng minh rằng con người không cần não nhưng nó đã khẳng định rằng con người vẫn có thể tiếp tục sống bình thường và thậm chí có trí thông minh siêu việt với những bộ não rất nhỏ hoặc gần như không tồn tại.
Vậy thì, ý thức, khả năng nhận thức và trí tuệ của con người dường như không đến từ não bộ? Như vậy, ý thức của con người đến từ đâu?
Tiếp sau nghiên cứu của Giáo sư Lorber, đã có nhiều đề xuất của các nhà khoa học thần kinh về việc có thể có một “bộ não vô hình” trong cơ thể người, hoặc có thể được gọi là “não sâu”, cho rằng các chức năng của não không chỉ được thực hiện bởi vỏ não mà chúng ta có thể quan sát được.
Ông Patrick Wall, giáo sư giải phẫu học tại Đại học London, nhận xét: “Trong hàng trăm năm, các nhà khoa học thần kinh đã tin rằng tất cả những khám phá mà họ yêu thích về chức năng não đều do vỏ não thực hiện, nhưng thực tế là nhiều chức năng được cho là thuộc về vỏ não lại có khả năng được thực hiện bởi các cấu trúc sâu hơn của não.”
Ông Norman Geschwind, nhà thần kinh học tại Bệnh viện Beth Israel trực thuộc Harvard, cho biết: “Không có gì phải bàn cãi rằng cấu trúc sâu hơn của não đóng vai trò quan trọng đối với nhiều chức năng của não”.
Ông David Bowsher, giáo sư sinh lý học thần kinh tại Đại học Liverpool, Vương quốc Anh, cho biết: “Gần như chắc chắn rằng các cấu trúc sâu hơn của não quan trọng hơn những gì hiện nay người ta nghĩ.”
Để lý giải hiện tượng người “không có não” này, nhà sinh hóa người Anh Donald R. Forsdyke đã đề xuất vào năm 2015: “Ý thức có thể được ‘lưu trữ trong một số dạng hạt hạ nguyên tử (subatomic particle) cực nhỏ’ mà thành phần của chúng vẫn chưa được các nhà sinh hóa và sinh lý học biết đến, có lẽ là ‘bên ngoài cơ thể chúng ta’. Tất nhiên, khi chúng ta nói về bộ nhớ bên ngoài, chúng ta đề cập đến lĩnh vực trừu tượng hơn của ‘tâm trí’ và ‘tinh thần’”.
Nhà hóa sinh người Anh Donald R. Foss tin rằng ý thức có thể được lưu trữ ở một số dạng hạ nguyên tử cực nhỏ. (Ảnh minh họa: Fizkes/ Shutterstock)
Con người liệu có cơ thể vô hình?
Nhà sinh lý học thần kinh người Úc Sir John Carew Eccless (1903-1997), người đoạt giải Nobel Y học năm 1963, tin rằng “ý thức” và “não bộ” của con người là hai cá thể riêng biệt. Con người có một “ý thức” phi vật chất, độc lập với não, điều khiển các hoạt động của não. Sau khi bộ não vật lý chết đi, “thân thể vô hình” này có thể vẫn tồn tại và thực hiện các hoạt động sống.
Một số nhà khoa học cũng đã thực hiện nghiên cứu về trải nghiệm cận tử, bao gồm nghiên cứu về trận động đất ở Đường Sơn được công bố trên Tạp chí Tâm thần và Thần kinh Trung Quốc.
Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng khi cận kề cái chết và não ngừng hoạt động, một số người vẫn có thể quan sát rõ ràng mọi thứ diễn ra xung quanh, thậm chí có thể quan sát cơ thể vật chất của họ từ bên ngoài cơ thể. Điều này khiến các nhà nghiên cứu tin rằng ngoài cơ thể vật chất có thể nhìn thấy bằng mắt thường, con người còn có một phần “cơ thể vô hình”. Hơn nữa, phần đó của “cơ thể vô hình” có thể tách ra khỏi cơ thể xác thịt.
Nghiên cứu hàng ngàn trải nghiệm cận tử: Tinh thần con người độc lập với bộ não
Trong một số trường hợp, não của một số bệnh nhân mắc COVID-19 bị virus phá hủy 2% và xuất hiện các triệu chứng khác như suy giảm nhận thức; một số bệnh nhân bị sa sút trí tuệ không thể tự chăm sóc bản thân do teo não một phần. Tuy nhiên, não của những “người thiếu não” được đề cập ở trên gần như không còn, nhưng các chức năng của não vẫn hoàn toàn bình thường. Lý do là gì?
Mấu chốt của điều này có thể nằm ở việc “cơ thể vô hình” và “não sâu” có bị tổn thương hay không.
Não của một số bệnh nhân nhiễm Covid-19 bị tổn thương 2% bởi virus, và các triệu chứng khác nhau như suy giảm nhận thức xuất hiện. (Ảnh minh họa: fizkes/ Shutterstock)
Nghiên cứu y học hiện đại về bệnh tật chỉ có thể quan sát cơ thể con người được cấu tạo bởi các tế bào phân tử. Trong 200 năm qua, vật lý học đối với thế giới vật chất dần dần nhận ra rằng các nguyên tử có thể phân tách, và phát hiện ra các điện tử, cũng như hạt nhân nguyên tử, neutron, neutrino, v.v. Tuy nhiên, các dụng cụ y tế ngày nay như kính hiển vi, CT, siêu âm B, X-quang vẫn chỉ có thể quan sát cấu trúc cơ thể người ở mức độ phân tử. Nếu con người có kính hiển vi có thể quan sát được nhiều chất cực nhỏ hơn trong tương lai, họ có thể quan sát được nhiều dạng tồn tại của con người ở dạng vi mô hơn và sâu hơn.
Con người có hiểu biết rất hạn chế về bộ não, và bộ não có khả năng hoạt động với một cơ chế mà chúng ta không thể tưởng tượng được.
Chu Hậu/ Theo Epoch Times
nguồn trithucvn.org.
.
nội dung bài rất hấp dẫn
Trả lờiXóa