Mẹ
tôi kể, cuối năm 1943, ảnh hưởng đảo chính Nhật, gia đình tôi phải tạm
tản cư từ Hà Nội ra ngoài thành phố; lúc đó mẹ tôi đang có mang tôi sắp
tới ngày sanh, mẹ được chở trên một chiếc xe bò có lót rơm, vào Hà Đông
thì tôi được sanh ra trên xe bò, nên trong giấy khai sanh, nơi sanh là
Hà Đông (đáng nhẽ tôi phải được đặt tên là Rơm mới đúng.)
Trong gia đình, các anh chị em tôi đều được đi xe tay, xe kéo, đến nhà thương (lúc đó chưa gọi là bệnh
viện) ra đời ở Hà Nội, duy chỉ có mình tôi được sanh trên xe rơm do hai
con bò chở. Như vậy xe bò là phương tiện di chuyển đầu tiên tôi được
dùng. Về sau mẹ lại kể, vào năm 1946 vẫn loạn lạc, gia đình tôi chạy từ
Hà Nội về Thái Bình; lúc đó, cô út mới 5 tháng, còn đỏ hỏn, tôi mới hai
tuổi, mẹ tôi phải thuê người gánh tôi và cô út trong hai cái thúng. Còn
anh chị tôi thì một người mẹ dắt, một người bố dắt. Phương tiện di
chuyển thứ hai của tôi là được gánh bằng thúng.
Tôi
lớn lên ở Hà Nội, Hải Phòng, trưởng thành ở Sài Gòn, những chiếc xe kế
tiếp tôi được đi là: xe đạp, bus, xích lô đạp, taxi, xe đò, xe lam, xe
thổ mộ, xe gắn máy (chỉ ngồi sau lưng tài xế) và phà. Mỗi phương tiện di
chuyển này đều để lại trong tôi một ký ức ngọt ngào.
Thuở
mới lên mười tập xe đạp với bạn, đầu gối, khuỷu tay lúc nào cũng rớm
máu, sây sát vẫn hẹn hò tập nữa, chưa đi giỏi đã chở nhau, ngã lên ngã
xuống. Chao ôi, là hạnh phúc!
Xe
bus tôi đi ở thời gian trung học, lúc nào cũng bị dồn vào một góc xe,
không nhìn thấy trạm xuống. Nhưng đi trên xe bus tôi học được nhiều điều
qua những nét mặt của từng người. Nét mặt, nụ cười hồn nhiên của học
trò, nét băn khoăn của giới công, tư chức, nét mệt mỏi của những người
lao động. Tất cả chen chúc, hối hả lên, hối hả xuống. Tôi hay ngoái cổ
nhìn theo những cái lưng vừa được thả xuống lề đường. Có cái lưng lấm
tấm, có cái lưng ướt đẫm mồ hôi.
Tôi
cũng thích di chuyển bằng xích lô đạp lắm, thong thả và thoáng. Nắng
quá có mui kéo lên, mưa có cánh gà thả xuống. Xích lô đạp không bí và
ngột ngạt mùi xăng như taxi. Taxi ở Sài Gòn hồi đó là những chiếc xe
nhỏ, cũ, của hãng Renaul, lúc nào cũng ngộp mùi xăng.
Tôi
nhớ lại, có lần các cô học trò mới lớn, ngồi nói chuyện “người chồng lý
tưởng” với nhau. Mỗi người chọn một ông chồng tiêu chuẩn đẹp trai, con
nhà gia giáo, hoặc “phải có danh gì với núi sông.” Tôi nói một cách hồn
nhiên: “Tao xí ông xích lô đạp, để chở tao mỗi ngày.” Cả nhóm bạn cười
ầm lên: “Nhỏ này ngu, cứ có tiền là có xích lô đi, việc gì phải lấy anh
phu xe.”
Sau thấy anh xích lô ở trong ngõ gần nhà, có hai vợ, anh đi làm về,
uống rượu, và đánh cả hai bà vợ quá xá, tôi đâm hoảng, không dám tuyên
bố dại dột nữa. Không dại dột mơ ông xích lô hay đánh vợ, nhưng khi
trưởng thành đã đi làm, vẫn thích đi xích lô đạp. Nhà tôi ở Thị Nghè,
văn phòng hãng thông tấn Associated Press ở lầu 4, trong khu thương xá
Eden. Ông xích lô tháng của tôi ở Thủ Đức, sáng sáng ông lên đón tôi,
thả tôi xuống Nguyễn Huệ, ông đi kiếm khách nguyên ngày, chiều về ghé
đón. Có hôm tôi đi chơi với “bồ” thì ông về xe không.
Xích lô máy tôi sợ lắm, đi thử một, hai lần rồi. Bay nón, bay tóc, bay áo, và có thể bay luôn cả linh hồn xuống đường.
Thuở
bắt đầu có hẹn hò, đưa đón, thích nhất được ngồi sau Vespa hay xe Honda
của các chàng. Ngồi mà không dám ngồi sát, hai chân về một phía, khi
mặc robe còn phải hai chân để chồng lên nhau; nếu chưa thân lắm, phải
giữ một khoảng cách với cái lưng đằng trước, không dám ngồi thật sát,
nên có khi suýt ngã mỗi lần xe quẹo hay xe ngừng.
Những
con đường Sài Gòn ngày đó không chen chúc quá đáng, có những đường đôi
khi còn vắng bóng xe, thỉnh thoảng mới có xích lô đạp đi vào như đường
Cường Để, Đồn Đất. Mọi người, mọi vật thong thả, đám mây trên cao cũng
thong dong trôi.
Xe
lam, thỉnh thoảng chờ taxi hay xích lô đạp mãi không được, cũng trèo
lên xe lam. Xe lam không cần đến bến, không có bảng đậu như xe bus, miễn
mình biết đường đó có xe lam chạy, cứ chờ xe đi qua, vẫy tay xe còn chỗ
sẽ ngừng lại cho lên, muốn xuống, cứ ơi ới kêu tốp tốp, là được thả
xuống. Nhưng đi xe lam chẳng thấy nên thơ tí nào cả.
Xe
thổ mộ thì tuyệt vời, không phải ở đâu cũng có. Sài Gòn không có xe thổ
mộ đã lâu lắm rồi. Tôi nhớ chỉ một hai năm đầu vào Nam thấy xe thổ mộ
đưa các bà đi chợ. Sau này mỗi lần từ Sài Gòn xuống Bình Dương, tôi được
đi xe thổ mộ từ bến xe đò Bình Dương về nhà dì tôi ở đường Châu văn
Tiếp, quá miếu tử trận một chút.
Tiếng
vó ngựa gõ lóc cóc trên đường nghe hay lắm, lúc đó chẳng biết diễn tả
thế nào, âm thanh khô và dứt khoát, xe đi dọc bờ sông Bình Dương (do
sông Bé chẩy qua tỉnh), đường xá rộng, xe ít, người thưa, gió từ sông
thổi lên, chiếc xe lắc nhẹ như đưa võng, thỉnh thoảng nghe tiếng roi của
người xà ích quất nhẹ vào mông ngựa.
Cái
cảm giác cô gái tỉnh thành được về quê chơi, cái gì cũng thấy hay, cũng
lạ tai, lạ mắt, cũng đẹp. Xe đưa về đến sát hàng rào nhà dì tôi, nhìn
thấy cái giếng nước trong sân mới phải nhẩy xuống. Thời niên thiếu quê
nhà, chao ơi, làm sao tả!
Tôi
cũng thích được đi qua phà. Một người bạn thân của anh tôi, hồi đó hay
cho tôi qua phà Thủ Thiêm chơi. Những hôm trời mưa lâm râm qua phà trên
sông Sài Gòn thấy mênh mông, buồn và đẹp làm sao! Mới lớn mà, anh hơn
tôi đến bảy, tám tuổi. Chắc anh cũng còn nhớ mãi kỷ niệm những lần dắt
tay một cô bé qua phà. Rồi những dịp hè, (trước 1963 đường sá còn yên
ổn) chị em tôi được cha mẹ cho đi xuống tận Bạc Liêu, nơi cô chú tôi ở,
phải qua hai cái bắc: bắc Mỹ Thuận và bắc CầnThơ.
Tôi yêu cái không khí nhộn nhịp, khi xe đò đậu lại, chờ sang phà.
Tiếng
rao của các hàng quà bánh, hình ảnh của những người bán hàng, khăn rằn
vắt vai, hay nón lá đội đầu; những thúng, những rổ đựng: ổi xá lị, ốc
gạo, mía ghim, xoài, cóc, thơm v.v, sao mà đẹp thế!
Sau
năm 1963 cha mẹ chúng tôi không cho con đi xe đò xa nữa, vì đường sá
bắt đầu bất an. Bây giờ, ngồi đây, nhớ lại cái cảnh đất nước thái hòa đó
vẫn ứa nước mắt.
Nhưng
chuyến về Việt Nam vừa qua, cho tôi một cái nhìn về giao thông hoàn
toàn đổi khác. Trước tiên Sài Gòn là nơi dân quê cả ba miền tụ về kiếm
sống. Càng đông người, càng nhiều việc, người tăng thì xe cộ tăng theo,
gần như 90% gia đình có xe gắn máy, gia đình năm người, thì cũng phải
cần đến ba cái xe gắn máy, để sáng ra đi làm, mỗi người về một hướng.
Trước
khi lên xe gắn máy, ai cũng cần có kính râm, khẩu trang, nón sắt, găng
tay, nếu phụ nữ mặc áo ngắn tay thì găng lên đến cùi chỏ, em bé đi theo
còn có một tấm voan trùm đầu che bụi. Người Sài Gòn gọi đó là “võ trang
đến tận răng”. Dân số Sài Gòn hiện nay theo thống kê chính thức là 8.5
triệu, nhưng người ta cộng thêm số người chưa kiểm soát được có thể lên
đến 10 triệu.
Chỉ cần tưởng tượng hai phần ba số người đó, sáng sáng túa ra đường
bằng những chiếc xe gắn máy. Tiếng nổ của xe, rung cả mặt trời vừa thức,
khói từ những ống bô bay ra làm ô nhiễm đám mây đầu tiên vừa nhìn thấy,
và con người phải đón nhận ngay tiếng động đó vào đầu, đám khói đó vào
phổi như bắt đầu của một ngày dài.
Nếu
đứng trên một sân thượng nhìn xuống đường phố, Sài Gòn và Hà Nội không
khác nhau mấy, cái khác biệt chỉ là tỷ lệ ngắn, dài, rộng, hẹp, còn cả
hai đều giống như từng con kinh khổng lồ chở theo nó một đám rác rất
ngoạn mục. Những hình tròn của nón sắt nhìn từ trên cao xuống như những
cái lá lục bình to đủ màu, những càng xe như những khúc củi cong, bập
bềnh trôi, người xếp lớp như châu chấu, muốn chồng lên nhau, chân tay
ngọ ngoạy, cả bốn hướng đâm sầm vào nhau.
Trên cái khối sắt có hai càng đó, một con châu chấu ốm yếu chở năm con
heo bó chặt trong rọ, hai con rọ ôm đằng trước, ba con rọ nằm đằng sau;
hay châu chấu chở nguyên cái tủ lạnh nhỏ còn trong thùng, một tay cầm
ghi, một tay ngược ra sau lưng đỡ; hoặc châu chấu chở một lúc bốn vòng
hoa tang, xếp theo chiều dài của hai bên xe, không nhìn thấy thân mình
đâu cả, chỉ thấy hoa tang lừng lững đi, như đi vào nghĩa trang; có khi
châu chấu chở nguyên một gian hàng bán bát đĩa Bát Tràng, thúng trước,
rọ sau, chẳng bao giờ rơi vỡ; châu chấu còn chở một cửa hiệu bán quần
áo, với gọng, với móc che kín mít thân mình, chỉ thấy những miếng vải
xanh đỏ, bay bay, lạ và đẹp lắm!
Kinh hoàng hơn nữa, châu chấu bố, châu chấu mẹ, châu chấu con và ngay
cả châu chấu sơ sinh, tổng cộng năm mạng chở nhau trên cái khung sắt đó,
mẹ châu chấu bình thản cho con bú trong khi cái khung sắt cứ nhúc
nhích.
Giữa
cái con kinh chở đám rác bập bềnh đó, chợt xuất hiện một cái xe hơi,
cái xe của ai nhỉ? Xe hiệu Ferrari hay Lamborghini (giá trung bình từ
198 ngàn đến 320 ngàn Mỹ kim; nhập vào Việt Nam đánh thuế gấp ba lần).
Cái xe hơi hào nhoáng đó thản nhiên nhúc nhích quay đầu quẹo chữ U giữa
dòng xe gắn máy.
Bỗng
tất tả ở đâu đến một bà áo cánh vá, quần đen ống thấp, ống cao, hai bàn
chân nứt nẻ trong đôi dép nhựa bẩn thỉu, gánh một đôi quang mỗi bên vài
bó rau, hai, ba nải chuối, mấy củ hành, bà cũng thản nhiên đứng nhúc
nhích cản trước chiếc xe hơi, bà muốn qua đường. Bà đâu có biết xe của
ai, mang nhãn hiệu gì, bao nhiêu tiền? Cản trở của xe tải hay xe hơi hào
nhoáng đối với bà cũng như nhau, bà chỉ cần băng qua bên kia đường bán
mấy nải chuối, hình như có một người đang gọi mua.
Băng
qua đường là cả một nghệ thuật, du khách không có kinh nghiệm, không
dám sang đường một mình. Phần nhiều ở ngã tư không có đèn xanh, đèn đỏ
và nếu có chẳng thấy ai tuân theo luật giao thông. Xe không bao giờ
ngưng lại cho người đi bộ. Người sang đường phải tự hiểu: bước xuống,
băng sang, đi chậm, nhưng không rụt rè, cố nhìn vào mặt người lái cái xe
như đang muốn tông vào mình, thực sự, khi hai người nhìn thấy nhau,
người lái xe sẽ nhường cho mình bước thêm một bước, rồi nhích được một
bước, khách bộ hành phải nhìn kế tiếp vào cái xe vừa chạy tới; cứ thế,
vừa bước vài bước vừa nhìn. Không rụt rè, không chạy, và nhất là không
được hốt hoảng chạy ngược lại lề đường.
Xe
phun khói tự nhiên, nhúc nhích rất chậm, nhất là vào giờ “tan tầm” Bạn
có nhìn thấy đàn tầm trong cái nong nhúc nhích bao giờ chưa? Nếu chưa,
thì chịu khó về Hà Đông ở miền Bắc nhìn đi, cái con kinh xe cộ này,
giống như cái nong tầm vậy: đông đúc, lúc nhúc và nhúc nhích rất chậm.
Nhưng những chiếc xe nhúc nhích rất chậm đó, thực sự nó đang chở trên nó
những con người tất bật lăn xả vào xã hội, giành giựt từng mảnh đời
sống hàng ngày.
Đó
là một bức tranh nhìn xuống từ một căn nhà bảy từng, chiều ngang ba
thước, chiều sâu sáu, bảy thước. Những ngôi nhà như thế này, rất nhiều ở
Hà Nội và Sài Gòn, vì giá đất rất cao, được tính bằng vàng. Người Việt ở
hải ngoại không cách nào hiểu được tại sao mỗi mét vuông đất giá đến
năm sáu cây vàng. (Mỗi cây khoảng một ngàn Mỹ kim).
Vì
xe luôn luôn kẹt cứng, nên không chạy nhanh được, không có tai nạn xe
gắn máy khủng khiếp xảy ra trong thành phố giữa ban ngày, chỉ có sây
sát, cọ xước. Tai nạn khủng khiếp chỉ xẩy ra ở ngoài quốc lộ, đường đi
xuyên tỉnh, nơi tài xế có thể chạy quá tốc độ. Ban đêm, khi mọi người đã
đi ngủ, xe gắn máy kiếm cơm ban ngày đã được cất vào nhà, hoặc khóa
lại, nằm trên lề đường, trước các khách sạn, là lúc các con ông lớn, các
con đại gia mang xe gắn máy “hàng xịn” ra đua. Lúc đó tai nạn sẽ xảy
ra, sống chết chỉ là trò chơi tìm cảm giác mạnh của các quý tử.
Sài
Gòn hay Hà Nội bây giờ không còn ai nói đến chữ “thong thả” nữa. Cái
tất bật của họ khác với cái tất bật của Âu, Mỹ. Người Âu, Mỹ chọn cái
tất bật, trong khi họ có thể chậm lại. Người Việt bây giờ bị cuốn vào
tất bật, không ra được nữa rồi. Chậm lại có nghĩa là thất bại, là bỏ
cuộc.
Nhưng
những chiếc xe trong thành phố vẫn nhúc nhích rất chậm, chở trên nó một
đàn châu chấu ùa ra từ một cánh đồng vô tận, vết chân của nó cào xuống
mặt đường, sẽ để lại những dấu tích vào những trang ký sử sau này.
Trần Mộng Tú
nay tìm không ra xe ngựa
Trả lờiXóa