THÀNH NGỮ ĐIỂN TÍCH 101 :
TIN NHẠN chữ Nho là NHẠN TÍN 雁信 là tin tức do chim hồng nhạn đưa đến. Theo tích sau đây :
TÔ VÕ 蘇武(140 — 60 Trước Công Nguyên)tự là Tử Khanh 子卿, làm
quan dưới triều Hán Vũ Đế. Thiên Hán Nguyên niên (Năm 100 trước CN) Tô
Võ phụng mệnh đi sứ Hung Nô, vua Hung Nô là Thiền Vu mến tài muốn chiêu
hàng. Tô chẳng khứng, nên bị đày ra Bắc Hải chăn dê. Thiền Vu phát cho
một đàn dê đực và phán rằng : Khi nào dê đực đẻ con thì sẽ cho về ! Lại
không phát thực phẩm, bắt Tô phải tự mưu sinh trong vùng băng tuyết giá
lạnh không một bóng người. Tô phải ăn tuyết nằm sương, chịu đói chịu
lạnh suốt 19 năm trường, vẫn giữ vững khí tiết. Tay luôn chống cây cờ mao của vua ban, chỉ còn các tua và cán cờ. Nhân
thấy vào mùa đông chim hồng nhạn bay về hướng nam để tránh lạnh, bèn
viết thơ buộc vào chân chim rồi thả cho bay về đất Hán. Sau nhà Hán và
Hung Nô thay đổi chính sách ngoại giao hòa hoãn hơn. Vua Hán hỏi Tô Võ,
chúa Hung Nô nói dối là Tô Võ đã chết . Vua Hán đưa thư của Tô Võ gởi
về. Chúa Hung Nô đành thả Tô Võ về nước. Bấy giờ đã là năm thứ 6 đời Hán
Chiêu Đế (năm 81 trước Công Nguyên). TÔ VÕ được xưng tụng như là một
biểu tượng của sự Trung Quân Ái Quốc, và thành ngữ TÔ VÕ MỤC DƯƠNG 蘇武牧羊
là TÔ VÕ CHĂN DÊ dùng để chỉ những ai dù trong hoàn cảnh khó khăn như
thế nào cũng vẫn giữ vững lập trường không thay đổi. Và...
TIN NHẠN sau dùng rộng ra để chỉ tất cả những tin tức về thư từ qua
lại. Như trong Truyện Kiều, Tú Bà đã dạy cho Thúy Kiều những mánh lới
để câu khách trong đó có câu :
TIN NHẠN vẩn, lá thư bài,
Đưa người cửa trước, rước người cửa sau.
Trong truyện thơ Nôm khuyết danh Nữ Tú Tài kể lại truyện trong Kim Cổ Kỳ Quan cũng có câu :
Tuấn Khanh đương tiệc tưng bừng,
Đã nghe TIN NHẠN bay chừng tới nơi.
Trong "Cung Oán Ngâm Khúc" của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, đoạn
diễn tả nỗi buồn của nàng cung nữ tủi thân trách phận vì thất sủng, lòng
mong mỏi đón chờ tin tức của đấng quân vương cũng có câu:
Ngày sáu khắc mong TIN NHẠN vắng
Ðêm năm canh lắng tiếng chuông rền
Lạnh lùng thay giấc cô miên
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u"
Không gọi là TIN NHẠN thì có thể gọi là TIN HỒNG, vì HỒNG cũng
nằm trong tên kép của HỒNG NHẠN 鴻雁 cùng là một loại vịt trời bay từ bắc
xuống nam khi đông về và bay ngược trở về bắc khi mùa xuân đến, mà người
ta hay dùng để đưa thư khi cần thiết. Như trong Truyện Kiều, khi đã
tiễn Từ Hải ra đi lập nghiệp, Thúy Kiều ở lại vò võ một mình trông ngóng
:
CÁNH HỒNG bay bổng tuyệt vời,
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
CÁNH HỒNG ở đây vừa chỉ chí lớn bay cao bay xa của Từ Hải, vừa bày
tỏ lòng mong ngóng tin tức của Thúy Kiều đối với người anh hùng lên
đường làm việc lớn.
Trong nhóm thơ Nôm của truyện "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ", còn gọi là truyện "Bạch Viên Tôn Các" thì có câu :
Cách trở bấy lâu đã mấy đông,
Trông chừng vắng vẻ diễn TIN HỒNG.
TIN HỒNG hay THƯ HỒNG hay TIN CÁ đều có cùng một nghĩa là Tin
tức do thư từ đưa đến, cũng trong truyện Lâm Tuyền Kỳ Ngộ lại có câu :
Trao mượn THƯ HỒNG muôn nẻo tới,
Ngóng trông TIN CÁ luống ngày qua.
TIN CÁ là Ngư Tín 魚信. Theo Hán. Thái Ung 漢·蔡邕: Trong bài thơ "Ẩm Mã
Trường Thành Quật hành 飲馬長城窟行" có câu : Khách tòng viễn phương lai, Di
ngã song lý ngư, Hô nhi phanh lý ngư, Trung hữu xích tố thư
客從遠方來,遺我雙鯉魚。呼兒烹鯉魚,中有尺素書。 Có nghĩa : Khách từ phương xa đến, để lại cho
ta hai con cá chép, gọi trẻ nấu cá chép, trong bụng cá chép có tờ thư.
Từ tích trên nên TIN CÁ cũng có nghĩa là Tin Thư. Kết hợp với chim hồng
nhạn ở trên, ta có thành ngữ BÓNG CHIM TĂM CÁ, như khi Kim Trọng đã thi
đậu làm quan rồi muốn đi tìm Thúy Kiều, nhưng ...
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
BÓNG CHIM TĂM CÁ biết đâu mà tìm !?
TIN SƯƠNG là SƯƠNG TÍN 霜信. Theo《Mộng Khê Bút Đàm 夢溪筆談》của
Thẩm Quát đời Tống 宋. 沈括 : Phương bắc có một loài Bạch Nhạn, nhỏ hơn
Hồng Nhạn, lông màu trắng, cuối thu thì bay đến, khi bay đến thì trong
một hai ngày sương sẽ giáng xuống ngay. Người Hà Bắc gọi là SƯƠNG TÍN.
Đỗ Phủ cũng có thơ rằng : Cố quốc sương tiền bạch nhạn lai 故國霜前白雁來. Có
nghĩa : Nơi quê cũ cứ trước khi sương giáng thì có bạch nhạn bay đến.
Trong văn học cổ dùng rộng ra, nên TIN SƯƠNG cũng có Ý nghĩa như là TIN
NHẠN vậy. Trong Truyện Kiều, khi Thúy Kiều đã quyết định bán mình chuộc
tội cho cha thì tin tức được đồn lan rộng ra ngay :
Sự lòng ngỏ với băng nhân,
TIN SƯƠNG đồn đại xa gần xôn xao.
Khi ở lầu Ngưng Bích nhớ đến Kim Trọng, Thúy Kiều cũng đã :
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
TIN SƯƠNG luống hãy rày trông mai chờ.
Còn trong Hoa Tiên Truyện của Nguyễn Huy Tự và Nguyễn Thiện cũng có câu :
Đình mai đã lọt TIN SƯƠNG,
Rèm Tương khách hãy mơ màng bán mê.
TINH KIỀU 星橋 : TINH là SAO; KIỀU là CẦU; Nên TINH KIỀU là Cầu được
bắt bằng các ngôi sao. Tương truyền vào đêm Thất Tịch (Mùng 7 tháng 7 Âm
lịch) nhìn lên dãy Ngân Hà trên trời, ta thấy sao sáng lấp lánh, đó
chính là chiếc cầu do các con chim ô thước (chim khách) bắc ngang qua
sông cho Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau sau một năm xa cách. Trong truyện
thơ Nôm khuyết danh Bích Câu Kỳ Ngộ có câu :
Ả Hằng ví nặng lòng yêu,
Vén mây mở lối TINH KIỀU mới nao !
Vì chiếc cầu là do chim Ô Thước bắc, nên còn được gọi là CẦU Ô. Như
trong truyện thơ Nôm khuyết danh "Phạm Tải Ngọc Hoa" (còn có tên là
PHẠM CÔNG CÚC HOA) có câu :
Đưa thơ tính đã nhiều lần,
CẦU Ô rắp bắc sông Ngân cùng nàng.
Còn trong truyện thơ "Lâm Tuyền Kỳ Ngộ" thì gọi bằng CẦU THƯỚC :
CẦU THƯỚC phen nầy thênh dịp bước,
Tấc gang riêng giữ nghĩa chung tình.
TINH KỲ 星期 là Kỳ hạn giữa các vì sao, vốn để chỉ đêm mùng bảy tháng
bảy là đến kỳ hạn gặp gỡ giữa sao Ngưu và sao Nữ. Sau dùng rộng ra chỉ
chung những ngày có các vì sao tốt để trai gái kết hôn. Nên TINH KỲ là
ngày lành tháng tốt đã được chọn sẵn để cưới hoặc gã. Như khi Thúy Kiều
đã bán mình cho Mã Giám Sinh và khi "Tiền nong đã có việc gì cũng xong" thì :
Việc nhà đã tạm thong dong,
TINH KỲ giục gĩa đã mong độ về.
Còn TINH KỲ 星期 hiện nay có nghĩa là TUẦN LỄ, Nhất Cá Tinh Kỳ 一個星期 là
Một Tuần lễ. Tinh Kỳ Nhật 星期日 là ngày Chúa Nhật; Tinh kỳ Nhất 星期一 là
ngày Thứ Hai; Tinh Kỳ Nhị 星期二 là ngày Thứ Ba... cho đến Tinh Kỳ Lục 星期六
là ngày Thứ Bảy.
TINH SƯƠNG
星霜 : TINH 星 là chỉ các vì sao di chuyển theo mùa; SƯƠNG 霜 là mù sương,
mỗi năm chỉ có một mùa sương giáng; Nên TINH SƯƠNG 星霜 cũng như TUẾ
NGUYỆT 歲月 chỉ Ngày tháng lần lữa trôi qua, như trong thơ của Bà Huyện
Thanh Quan :
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thắm thoát mấy TINH SƯƠNG.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
TINH SƯƠNG 星霜 cũng được dùng như TINH KỲ 星期 và TIN SƯƠNG chỉ "Ngày lành tháng tốt" để tiến hành giá thú cưới gã, như trong Truyện Tây Sương :
Bước vào làm lễ tức thì,
Giải tình vân thụ, tính kỳ TINH SƯƠNG.
TINH SƯƠNG 星霜 còn
là SAO với SƯƠNG, là SƯƠNG SAO, như trong Chinh Phụ Ngâm Khúc của nữ sĩ
Đoàn Thị Điễm diễn Nôm, tả người chinh phụ nhớ thương trông ngóng chồng
hết năm nầy qua năm khác :
Nhớ chàng trải mấy SƯƠNG SAO,
Xuân từng đổi mới, đông nào có dư !
TINH VỆ 精衛 : Tên một loài chim ngoài biển. Theo thần thoại Trung Hoa thời thượng cổ :
Con gái của Viêm Đế 炎帝 thuộc Thần Nông Thị 神農氏 là Nữ Oa 女娃 (Trung
Hoa cổ xưa gọi các cô gái chưa chồng là Nữ Oa, như ta gọi các cô gái
con của vua Hùng là Mỵ Nương vậy). Trong một lần đi chơi ở biển đông, Nữ
Oa đã bị chết đuối bởi một trận ba đào cuồng
nộ. Ức lòng vì chết trẻ, hồn Nữ Oa đã hóa thành con chim Tinh Vệ, hàng
ngày tha sỏi đá cỏ cây để lắp bằng biển đông cho hả giận.
Trong Truyện Kiều lúc lập đàn tế Thúy Kiều trên sông Tiền Đường, cụ
Nguyễn Du cũng đã mượn tích nầy để tả nỗi oan khiên của Thúy Kiều:
Tình thâm bể thảm lạ điều,
Nào hồn TINH VỆ biết theo chốn nào?
Trong truyện Sãi Vãi, khi bàn về chữ Muốn, cụ Nguyễn Cư Trinh cũng cho ông Sãi nói rằng:
Đá TINH VỆ sãi muốn lắp sao cho cạn biển,
Đất nghỉ phù sãi muốn đắp để nên non.
TÒNG QUYỀN 從權 : là nói gọn lại của thành ngữ PHẢN KINH TÒNG QUYỀN
反經從權. PHẢN Có nghĩa là Đi ngược lại; KINH là Cái mẫu mực thông thường mà
ta phải theo. TÒNG là Theo, QUYỀN là Quyền biến. Nên PHẢN KINH TÒNG
QUYỀN có nghĩa là thay đổi khác với đạo thường lúc gặp cơn nguy biến.
Nên lúc ngộ biến thì phải tòng quyền, tức là gặp lúc khó khăn ngặt nghèo
thì phải biết ứng phó cho qua chớ không cố chấp câu nệ tiểu tiết gì cả !
Như trong truyện thơ Nôm khuyết danh NỮ TÚ TÀI, Cảnh Tiểu thư phải lòng
Tú Tài Tuấn Khanh, nhưng không biết phải hành xử như thế nào :
Ruột tằm bối rối nào yên,
Bồi hồi chưa định KINH QUYỀN làm sao.
Sau đó thì Phú Ông, chú của Cảnh Tiểu thư đã nói với Tuấn Khanh :
"Thấy chàng công tử sĩ hiền,
"Dám xin hạ cố TÒNG QUYỀN nên chăng ?
Và Tuấn Khanh đã đưa tín vật để đính hôn với Cảnh Tiểu thư :
"Gọi là tiểu lễ TÒNG QUYỀN,
"Trao người đành dạ, tôi xin khởi trình.
Tuấn Khanh đi gặp Ngụy Soạn Chi để nói rõ sự tình nữ cải nam trang của mình :
Tuấn Khanh việc rõ TÒNG QUYỀN,
Đổi thay quần áo như in mọi ngày.
Cuối cùng là lời giải thích của Tuấn Khanh với Cảnh Tiểu thư :
Tuấn Khanh rằng :"phận nữ nhi,
"CHẤP KINH QUYỀN cũng phải tuỳ mới thông...
Còn trong Truyện Kiều, sau khi sai nha đã trói Vương Viên Ngoại và Vương Quan lại để khảo tra, thì Thúy Kiều đã cân nhắc :
Sao cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong khi ngộ biến TÒNG QUYỀN biết sao?
Trở lại với truyện TÔ VÕ MỤC DƯƠNG 蘇武牧羊 là TÔ VÕ CHĂN DÊ dùng để
chỉ những ai dù trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào cũng vẫn giữ lòng
trung thành và giữ vững lập trường không thay đổi. Trong văn học cổ của
ta gọi TÔ VÕ là TÔ CÔNG như trong thơ của nhà vua Trần Trùng Quang :
Thói tinh chiên Hồ tặc chỉn hăm,
Gan thiết thạch TÔ CÔNG dễ đổi !?
Còn danh sĩ Hoàng Sĩ Khải trong Tứ Thời Khúc Vịnh thì gọi là TÔ KHANH :
Chí khí trai TÔ KHANH thờ Hán,
Mười chín thu một cán cờ không.
Còn trong "Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh" của cụ Nguyễn Du thì lại gọi là TÔ LANG :
TÔ LANG nằm lỗ giá ăn sương, ruột sầu rười rượi;
Châu Dị thấy hột cơm bám má, lòng tiếc ngùi ngùi.
TÔ TẦN 蘇秦 (? - 284 Trước Công Nguyên) tự là Qúy Tử 季子.
người đất Lạc Ấp thời Đông Châu ( Lạc Dương, Hà Nam ngày nay). Ông là
học trò của Qủy Cốc Tử. Sau khi học thành tài, đi du thuyết các nước mấy
năm đều thất bại. Trở về nhà, vợ vẫn ngồi dệt trên khung cửi không mừng
đón; Chị dâu không dọn cơm cho ăn; Cha mẹ không thèm ngó ngàn hỏi han
gì tới. Tô Tần cảm thán rằng :"Vợ không xem ta là chồng, Chị dâu không
xem ta là em chồng; Cha mẹ không xem ta là con; lỗi đều tại Tô Tần
ta hết thảy !". Bèn đóng cửa lấy hết sách ra để học lại, khổ đọc sách
Âm Phù của Thái Công; Mỗi khi buồn ngủ, bèn dùng cây dùi nhọn đâm vào
đùi cho tỉnh ngủ để học tiếp. Sau ba năm lại đi du thuyết các nước, đưa
ra phép "Hợp Túng" liên kết 6 nước Yên, Triệu, Hàn, Ngụy, Tề, Sở lại để
chống nước Tần. Tô Tần được 6 nước phong làm Túng Ước Trưởng 縱約長 đeo ấn
Tể Tướng của 6 nước. Vinh quy bái Tổ với tiền hô hậu ủng khí thế chẳng
thua một bậc vương hầu nào cả. Cha mẹ nghe tin đi đón ngoài ba mươi dặm
đường; Chị dâu bò bên lề đường để tiếp đón; Còn vợ thì hổ thẹn cúi gầm
mặt xuống không dám nhìn thẳng mặt chồng. Tô Tần lại rất cảm khái mà nói
rằng :"Nếu ta có được hai khoảnh ruộng ở Lạc Dương (thì đã sống yên
thân rồi), làm sao có được Ấn Tướng Quốc của sáu nước ?! Bần cùng thì
đến cha mẹ cũng không nhìn con, còn phú qúy rồi thì đến thân thích cũng
đâm ra nể sợ". Tích nầy đưa đến thành ngữ TIỀN CỨ HẬU CUNG 前倨後恭; Có
nghĩa " Trước thì khinh khi ngạo mạn, sau thì khép nép cung kính". Trong
thơ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu :
Kia nẻo TÔ TẦN xuân thuở trước,
Chửa đeo tướng ấn ai chào ?!
Trong tác phẩm SÃI VÃI của cụ Nguyễn Cư Trinh, khi cho ông SÃI luận về chữ SỢ có những câu như sau :
... Sợ sắc tốt, hại người Sùng phải luỵ;
Sợ báu kỳ, vu gã Viện mắc nàn.
Chị dâu sợ em vì sáu cái ấn vàng;
Tôi hiền sợ giặc vì một đôi ngọc trắng.
TỐ NGA 素娥 Còn gọi là HẰNG NGA 姮娥, THƯỜNG NGA 嫦娥. Có xuất xứ từ bài Nguyệt Phú 月賦 của Tạ Trang 謝莊 đời Tống; có
câu : Thường Nga thiết dược bôn nguyệt, nguyệt sắc bạch, cố vân TỐ NGA
嫦娥竊藥奔月,月色白,故云素娥. Có nghĩa : Thường Nga vì trộm thuốc mà bay lên cung
trăng, vì trăng màu trắng, nên gọi là TỐ NGA (TỐ là màu trắng, là tinh
khiết, là nguyên chất). Nên...
TỐ NGA 素娥, HẰNG NGA 姮娥,
THƯỜNG NGA 嫦娥 vừa dùng để chỉ MẶT TRĂNG, vừa dùng để chỉ NGƯỜI ĐẸP. Như
trong Truyện Kiều để giới thiệu hai chị em Thúy Kiều Thúy Vân là người
đẹp, cụ Nguyễn Du đã viết :
Đầu lòng hai ả TỐ NGA,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Hẹn bài viết tới :
TÔN, TỐNG, TƠ, TÚ, TUYỀN
杜紹德
Đỗ Chiêu Đức
Mời Xem :
bài viết rất hấp dẫn
Trả lờiXóa