Các bộ 8 nét
Như thường lệ, trước khi bắt đầu bài viết mới, mời tất cả cùng giải đoán câu đố của bài viết trước:
Tây gia nhất chích cẩu, 西家一隻狗,
Truy tung bất kiến tẩu, 追蹤不見走。
Tẩu đáo siêu thị trung, 走到超市中,
Hồi thân bất kiến đầu! 回身不見頭!
Có nghĩa:
Nhà mé tây có một con chó.
Đuổi theo nó nhưng không thấy đi.
Đi đến vào trong siêu thị.
Quay mình lại thì không thấy đầu!
Giải đáp:
Tây gia nhất chích cẩu, lấy bộ KHUYỂN 犬 = 犭.
Truy tung bất kiến tẩu, chữ TRUY 追 bỏ bộ XƯỚC 辶 đi.
Tẩu đáo siêu thị trung, lấy chữ THỊ 市 là Chợ.
Hồi thân bất kiến đầu, chữ THỊ 市 bỏ đi cái chấm trên đầu.
Ghép 4 phần trên lại, ta có chữ 獅 là Sư Tử 獅子.
Múa
Kỳ Lân, múa Sư Tử là những phong tục tập quán không thể thiếu trong
ngày Tết Nguyên Đán của người Hoa và của cả người Việt Nam ta nữa. Sư và
Hổ đều được tôn vinh là Chúa Sơn Lâm, là Vua của Núi Rừng. Sư Tử còn có
một địa vị thật cao trong Phật Giáo, được xem như là một con vật của
thần linh, như Đức Phật được tôn xưng là NHÂN TRUNG SƯ TỬ人中獅子, là Sư Tử trong loài người. Lời thuyết pháp của Phật gọi là SƯ TỬ HỐNG 獅子吼, là Tiếng gầm của con Sư Tử, vì khi Sư Tử gầm lên thì muôn thú đều im hơi lặng tiếng, tượng trưng cho lời thuyết pháp của Phật có thể cảnh tỉnh chúng sinh, trấn áp ưu phiền khổ não. Chỗ của Phật ngồi gọi là SƯ TỬ TỌA 獅子座. Trước cửa các chùa chiềng miếu mạo, hay có hình của 2 con Sư Tử đứng 2 bên để tượng trưng cho sự uy nghi hùng tráng, có tác dụng trấn thủ và bảo vệ. Hình tượng của Văn Thù Bồ Tác luôn luôn cởi trên một con Sư Tử. SƯ TỬ là biểu tượng của Pháp Lực, Trí Lực, Trấn áp tà ma.
Múa Sư Tử
Phật Tổ Như Lai là Nhân Trung Sư Tử
Đọc
Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung, không ai có thể quên được "Kim Mao Sư
Vương" Tạ Tốn với môn công phu "Sư Tử Hống" có thể làm rối loạn thần
kinh của những đối thủ công lực còn non kém. Trong văn học thì không thể
nào không biết đến "Sư Tử Hà Đông" của Trần Qúy Thường (hiệu là Long
Khâu Cư Sĩ) rất giỏi văn chương, thích la cà với các cô kỹ nữ xinh đẹp,
nhưng lại rất sợ vợ. Vợ là Liễu Nguyệt Nga con của một thế gia vọng
tộc ở xứ Hà Đông. Qúy Thường là bạn của Tô Đông Pha đời Tống, đã bị Tô
diễu cợt bằng bài thơ sau đây:
誰似龍丘居士賢,
Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền,
談空談有夜不眠。
Đàm không đàm hữu dạ bất miên.
忽聞河東獅子吼,
Hốt văn Hà Đông Sư Tử hống,
拄杖落手心茫然。
Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên!
Có nghĩa:
Có ai mà giỏi được bằng Long Khâu Cư Sĩ đâu?!
Có thể đàm luận chuyện đời suốt đêm không ngủ. Nhưng ...
Bỗng nghe tiếng rống của Sư Tử Hà Đông, thì...
Giật mình hoảng hốt đến nỗi gậy rớt khỏi tay!
Diễn nôm:
Long Khâu Cư Sĩ giỏi ai bằng,
Chuyện có chuyện không nói rất hăng.
Chợt bỗng Hà Đông Sư Tử rống,
Giật mình gậy rớt, hết còn... răng!
Từ đó về sau...
SƯ TỬ HÀ ĐÔNG trở thành bà vợ dữ, bà vợ hung ác, lấn lướt và "ăn hiếp" chồng!
Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn Sư Tử Hống Sư Tử Hà Đông
Giáp Cốt văn Kim Văn Đại Triện Tiểu Triện Lệ Thư
甲骨文
|
金文
|
金文大篆
|
小篆
|
繁体隶书
|
Ta thấy :
Từ Kim Văn đến Đại Triện Tiểu Triện, phần trên là chữ SANH 生 là Còn Sống (chưa Chín, chưa Chết), phần dưới là chữ ĐAN 丹 là màu Đỏ. Hội Ý là thực vật còn sống thì màu xanh, động vật mới sanh còn nhỏ thì màu đỏ nên THANH 青là màu Xanh, là Tuổi Xanh, như: THANH QỦA 青果 là Trái cây xanh, còn sống chưa chín; THANH NIÊN 青年 là Tuổi Xanh, tuổi trẻ, tuổi còn nhỏ...
Đông phương Giáp Ất thuộc Mộc là Màu Xanh, nên chữ THANH 青 còn có nghĩa là Hướng Đông, như THANH CHÂU 青州là Châu Quận nằm ở hướng chánh Đông. Ta có các từ...
THANH LỤC 青绿 : là Xanh biếc, như thành ngữ THANH SƠN LỤC THỦY 青山绿水: Ta nói là Non xanh nước biếc, chỉ cảnh nước non đẹp đẽ, như trong câu:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
NON XANH NƯỚC BIẾC như tranh họa đồ.
Ai vô xứ Nghệ thì vô!
THANH VÂN 青雲: là Mây Xanh ở tuốt trên trời cao, nên thường dùng để chỉ chuyện đắc ý, thỏa chí, như THANH VÂN TRỰC THƯỢNG 青雲直上 là Lên thẳng mây xanh, hoặc BÌNH BỘ THANH VÂN 平 步 青 雲 là Bước
bằng phẳng trên mây xanh, ta nói là Nhẹ Bước Thang Mây, là Thanh Vân
Đắc Ý, ngày xưa thường dùng để chỉ khi Thi Đậu, còn bây giờ dùng để chỉ
khi... Trúng số Độc Đắc!
THANH còn dùng để chỉ những vật màu xanh, như ...
ĐẠP THANH 踏青 : là Đạp trên Cỏ Xanh để đi dạo trong mùa xuân của tiết Thanh Minh, như cụ Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều là:
Thanh Minh trong tiết tháng ba,
Lễ là Tảo Mộ, hội là ĐẠP THANH.
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
THANH SỬ 青史 : là Sử Xanh, là sử được chép trên các thẻ tre màu xanh. Thanh Sử còn gọi là HÃN THANH 汗青: Hãn là Mồ Hôi, Thanh là Xanh, là Mồ Hôi
Xanh. Ngày xưa các ký sự đều được ghi trên thẻ tre. Trước khi viết chữ,
các thẻ tre đã được hơ lửa cho tiết ra hết chất nước như mồ hôi của
tre, vừa làm cho khô các thẻ tre, vừa cho mọt khỏi ăn để tre bảo quản
được lâu ngày. Trong bài Hát Nói CHÍ LÀM TRAI của cụ Nguyễ Công Trứ có
mượn 2 câu thơ của Văn Thiên Tường đời Tống là:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử ?
人生自古誰無死 ?
Lưu thủ đan tâm chiếu HÃN THANH.
留取丹心照汗青 !
Có nghĩa :
Người đời từ xưa đến nay ai mà khỏi phải chết đâu? Nhưng...
Làm sao để lưu lại được chút lòng son để soi rọi trong sử xanh!
BÍCH HẢI THANH THIÊN 碧海青天 : là Biển biếc Trời xanh, chỉ cảnh trời biển bao la đẹp đẽ, êm đềm, vắng lặng. Sau dùng để chỉ lòng kiên trinh của những người cô phụ chặc dạ đợi chồng, theo như hai câu thơ cuối trong bài Thường Nga của Lý Thương Ẩn đời Đường như sau:
嫦娥應悔偷靈藥,
Thường Nga ưng hối thâu linh dược,
碧海青天夜夜心.
BÍCH HẢI THANH THIÊN dạ dạ tâm.
Có nghĩa:
Hằng Nga chắc cũng hối hận, sao lại trộm linh dược mà chi, để...
Bây giờ trước cảnh trời xanh biển biếc đêm đêm lại phải ray rức trong lòng.
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm
Có 7 chữ thường dùng được ghép bởi 7 bộ khác nhau và đều cùng có chữ THANH 青 là màu Xanh ở bên Phải như sau :
1 2 3 4 5 6 7
清 請 情 晴 蜻 靖 倩
Thanh Thỉnh Tình Tình Thanh Tĩnh Thiến
1. THANH 清 : Có 3 chấm Thủy bên trái, thuộc bộ THỦY 水 làNước, nên THANH nầy có nghĩa là TRONG, như THANH BẠCH 清 白 là Trong Trắng; THANH KHIẾT 清 潔 là Trong sạch; THANH MINH 清明 là Trong Sáng; Tiết Thanh Minh là tiết của đầu mùa Xuân, bầu trời đã trong sáng, như trong Truyện Kiều đã viết:
THANH MINH trong tiết tháng ba,
Lễ là Tảo mộ, hội là Đạp thanh.
2. THỈNH 請 : Có bộ NGÔN 言 là Lời Nói bên trái, nên có nghĩa là LỜI MỜI, Lời VẤN AN của con cái đối với Ông Bà Cha Mẹ, như THỈNH THIỆP 請帖 là Thiệp Mời; THỈNH AN 請安 là Vấn An; THỈNH còn có nghĩa là XIN, như THỈNH THỊ 請示 là Xin Chỉ Thị; THỈNH NGUYỆN THƯ 請願書 là Thơ Yêu cầu hoặc Xin xỏ điều gìđó...
3. TÌNH 情 : Có bộ TÂM đứng 忄bên trái, nên TÌNH 情 nầy là: Tim Của người Thanh niên, nên có nghĩa là Tình Yêu, Tình Cảm 情感 ở trong lòng, như TÌNH NHÂN 情人 là Người Tình; TÌNH còn có nghĩa là TÌNH HÌNH 情形, TÌNH HUỐNG 情況, TÌNH CẢNH 情景, TÌNH TRẠNG 情狀...
4. TÌNH 晴 : Có bộ NHỰT 日 là Mặt Trời ở bên trái, nên cónghĩa là NẮNG RÁO. Trong bài Trúc Chi Từ của Lưu Vũ Tích có2 câu cuối rất nỗi tiếng như sau:
東邊日出西邊雨,
Đông biên nhựt xuất tây biên vũ,
道是無晴却有晴 !
Đạo thị vô TÌNH khước hữu TÌNH !
Có nghĩa:
Bên phía đông mặt trời đang lên, bên phía tây lại đổ mưa, nên...
Bảo
là VÔ TÌNH (Không có Nắng, cũng có nghĩa là Không Có Tình Cảm) chứ thật
ra là HỮU TÌNH (Có Nắng, cũng là Có Tình Cảm) Vì 2 chữ TÌNH 情 và 晴 là 2 chữ Đồng Âm! Đây cũng là một cách CHƠI CHỮ của người xưa:
Nói là không có Nắng, chứ thật ra là có Nắng!
Bảo là VÔ TÌNH, chứ thật ra là HỮU TÌNH!
5. THANH 蜻 : Có bộ TRÙNG 虫 là Sâu Bọ bên trái, nên có nghĩa là Con Chuồn Chuồn, tên kép là THANH ĐÌNH 蜻蜓; THANH NGA 蜻蛾 là Con Ngài: Một loại bướm đêm có hai cái râu thật đẹp, thường được ví với chân mày của các giai nhân: Mắt Phụng MÀY NGÀI.
6. TĨNH 靖: Có bộ LẬP 立 là Đứng ở bên trái, nên có nghĩa là Bình Yên, Vững vàng. Ta thường gặp từ nầy qua 2 tên LÝ TĨNH và QUÁCH TĨNH. LÝ TĨNH 李靖 thường bị đọc trại thành LÝ TỊNH. Có 2 người :
A. LÝ TĨNH là Thác Tháp Lý Thiên Vương 托塔李天王, ở cuối đời Thương đầu đời Châu, là cha của Na Tra Tam thế tử, rất được dân Đài Loan sùng bái và thờ kính.
B. LÝ TĨNH là Danh tướng và là Nhà Quân Sự giỏi ở cuối đời Tùy đầu đời Đường được vua Đường phong đến chức Vệ Quốc Công.
QUÁCH TĨNH 郭靖 là nhân vật chính
trong "Xa Điêu Anh Hùng Truyện" của Kim Dung, cùng với người anh em kết
nghĩa là Dương Khang, tên của 2 người là do đạo sĩ của Toàn Chân Giáo
là Khưu Xứ Cơ đặt cho khi còn chưa sinh ra đời để nhớ đến cái nhục của 2
vua nhà Tống bị quân Kim bắt ở TĨNH KHANG.
7. THIẾN 倩 : Có bộ NHÂN đứng 亻 ở bên trái, nên có nghĩa là Người đàn ông Đẹp Trai; thường được dùng như chữ TẾ 婿 là Chàng Rể. Như HIỀN THIẾN 賢倩 là Chàng rể qúy, Rể giỏi, giống như là HIỀN TẾ vậy; MUỘI THIẾN 妹倩 là Em rể, ĐIỆT THIẾN 姪倩 là Cháu rể...
Thiên Vương Lý Tĩnh và Na Tra Lý Tĩnh đời Đường
2. BỘ VŨ 雨 :
甲骨文
|
金文
|
金文大篆
|
小篆
|
繁体隶书
|
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn, Kim Văn Đại Triện, Tiểu Triện đều là hình tượng của
những hạt mưa từ trên trời rơi xuống. Ta có các từ thường gặp như VŨ
THỦY 雨水 là Nước mưa; VŨ QÚI 雨季 làMùa mưa; VŨ TẢN 雨傘 là Dù che mưa; VŨ Y 雨衣 là Áo đi mưa, khác với từ VŨ Y 舞衣 là Áo mặc để múa hát cho vua quan xem.
CẬP THỜI VŨ 及時雨: là Mưa Kịp Thời, Mưa đúng lúc người dân đang cần mưa cho mùa màng trồng trot. Đây cũng là ngoại hiệu của Tống Giang, một đầu lãnh của 108
anh hùng Lương Sơn Bạc. Khi còn làm Áp Ti trong huyện, Tống Giang luôn
là người cứu khổn phò nguy, đáp ứng kịp thời những anh hùng hảo hán,
giang hồ hiệp khách gặp cơn nguy nan hoặc lở bước sa chân cần được giúp
đở, cho nên mọi người mới tặng cho ngoại hiệu là Cập Thời Vũ.
PHONG PHONG VŨ VŨ 風風雨雨 : là Gió gió mưa
mưa, dùng chỉ chuyện đời dồn dập, hết chuyện nọ lại xọ đến chuyện kia,
như 2 câu thơ mở đầu bài "Sự Đời" của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu:
Gió gió mưa mưa đã chán phèo,
Sự đời nghĩ đến lại buồn teo!
LỆ HẠ NHƯ VŨ 淚下如雨 : là Nước mắt rơi xuống như mưa, dùng để chỉ chuyện gì đó rất thương tâm, rất thảm thiết, rất đau lòng; làm ta nhớ đến cô Kiều khi nghe Vương Quan kể về Đạm Tiên:
Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa!
Dân Nam Kỳ Lục Tỉnh nói là: "Khóc như mưa bấc!"
VŨ VÔ KIỀM TỎA 雨無鈐鎖:
là Mưa thì không cần phải cầm cọng gì cả (cũng có thể giữ được khách).
Đây là câu nói thuần túy của người Việt Nam (Người Hoa không biết câu
nói nầy), theo xuất xứ lý thú trong Giai Thoại Văn Chương Việt Nam như
sau:
Nguyễn Giản Thanh, người làng Ông Mặc (làng Me), huyện Ðông Ngàn (nay
là Từ Sơn), Bắc Ninh. Ông sống vào khoảng đầu thế kỷ XVI, sinh năm 1482
(cuối thế kỷ 15), mất năm nào không rõ, lúc nhỏ rất thông minh, mới 16
tuổi đã làu thông kinh sử, sau thi đỗ Trạng Nguyên, nên tục gọi là Trạng
Me.
Một
hôm đang đi học ở trường, thầy học là Thượng thư Ðàm Thận Huy vừa giảng
bài xong thì trời đổ mưa, học trò đều phải ngồi lại. Thầy Huy thấy vậy,
bèn ra một câu đối để học trò cùng đối cho vui, vế ra như thế nầy:
Vũ vô kiềm toả năng lưu khách.
雨 無 鈐 鎖 能 留 客,
雨 無 鈐 鎖 能 留 客,
Có nghĩa :
Mưa không cần phải kèm kẹp khoá giữ mà vẫn lưu được khách.
Nguyễn Giản Thanh đối ngay rằng:
Sắc bất ba đào dị nịch nhân.
色 不 波 濤 易 溺 人.
色 不 波 濤 易 溺 人.
Có nghĩa :
Sắc đẹp chẳng có sóng gió gì cả mà dễ làm cho con người ta chìm đắm.
Thầy
Huy xem xong khen rằng: “Câu đối này rất hay, có cái khẩu khí giọng
điệu của một Trạng Nguyên, nhưng sau này tất mê đắm vào vòng sắc dục mà
làm hại đến sự nghiệp!”
Tiếp đó, một người học trò tên là Nguyễn Chiêu Huấn lại đối là:
Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân.
月 有 彎 弓 不 射 人.
月 有 彎 弓 不 射 人.
Có nghĩa :
Mặt trăng có vòng cong giống như cây cung mà chẳng bắn ai cả.
Thầy
Huy phê: “Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí
chất hiền hoà, có hậu. Sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ an khang thịnh
vượng!”
Sau đó, lại có một người học trò khác đối rằng:
Phân bất uy quyền khả sử nhân.
糞 不 威 權 可 使 人.
Có nghĩa :
Phân
(cứt) chẳng có uy quyền gì cả, mà có thể sai khiến con người (mắc " ỉ
" là phải "đi cầu" ngay, không ai có thể cưởng lại được cả!)
Thầy Huy cười mà phê rằng: “Sau này sẽ giàu sang nhưng là hạng thô bỉ hũ lậu!”
Quả
nhiên, mấy năm sau, Nguyễn Giản Thanh thi đỗ Thủ khoa, rồi đỗ Trạng
Nguyên đời Vua Lê Uy Mục (1508), làm quan tới chức Lễ Bộ Thượng Thư,
nhưng vì say đắm một cô gái đẹp ở kinh thành mà đến ô danh bại tiết. Còn
Chiêu Huấn chỉ đỗ Bảng Nhãn nhưng làm quan và sống yên ổn trong vinh
hoa phú qúy, không xảy ra chuyện gì cả. Riêng người học trò kia sau cũng
đỗ đạt và cũng vào bậc hào phú trong vùng, nhưng ai cũng chê là hạng
thô lỗ, bỉ lậu.
Sắc bất ba đào dị nịch nhân
Có tất cả 105 chữ được ghép bởi bộ VŨ 雨nầy, tiêu biểu như: VÂN 雲, TUYẾT 雪, LÔI雷,ĐIỆN 電, SƯƠNG 霜, HÀ 霞 ...
HÀ 霞 :
là Ráng, là những vệt mây màu ngũ sắc đẹp đẽ mà ta thường thấy ở phương
đông khi mặt trời sắp mọc, và buổi chiều ở phương Tây khi mặt trời vừa
chen lặn. Thường thì Ráng buổi sáng rực rỡ và Ít màu sắc hơn là buổi
chiều. Ráng chiều luôn luôn diễm lệ gợi
cảm hơn trong cảnh chiều hôm khi trời vừa tắt nắng, ta hãy đọc lại 2
câu tuyệt cú trong bài Đằng Vương Các Tự của Vương Bột, người đứng đầu
trong Sơ Đường Tứ Kiệt thì sẽ rõ:
Lạc HÀ dữ cô vụ tề phi,
落霞與孤鶩齊飛,
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc.
秋水共長天一色。
Có nghĩa:
Ráng chiều xuống in hình con cò cô độc như cùng bay, trong...
Màu xanh của nước mùa thu như cùng một màu với sắc trời xanh vô tận.
LỘ 露 : là Mù Sương, là những hạt nước đọng lại trên lá trên hoa vào buổi sáng sớm. Ta còn gọi là Hạt Móc. Ta có các từ như LỘ THỦY 露水, BẠCH LỘ 白露, HÀN LỘ 寒露, TRIÊU LỘ朝露... đều dùng để chỉ những hạt sương sớm nầy.
CAM LỘ 甘露 : là Sương Ngọt, Chỉ nước ở trong Tịnh Bình của bà Quan Thế Âm Bồ Tát, có thể cải tử hồi sinh, xoa dịu hết mọi khổ đau của nhân thế. Tăng Quảng Hiền Văn có câu:
渴時一滴如甘露,
Khát thời nhất trích như CAM LỘ,
醉後添杯不如無。
Túy hậu thiêm bôi bất như vô !
Có nghĩa:
Khi khát thì chỉ một giọt nước thôi, cũng qúy như là nước CAM LỘ của bà Quan Âm vậy, còn...
Sau khi say rồi (Uống cho đã thèm rồi!), có mời thêm một ly nữa thì cũng như không mà thôi!
Lạc hà cô vụ tề phi, Thu thủy trường thiên nhất sắc
3. BỘ PHI 非 :
甲骨文
|
金文
|
金文大篆
|
小篆
|
繁体隶书
|
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng của 2 cánh chim
mở ra hai bên, lại vừa giống như là 2 người đang đứng đâu lưng nhau,
mặt hướng về hai phía khác nhau, nênPHI 非 chỉ sự ngược nhau, không nhất trí nhau, thế nên, PHI có nghĩa là Không Đúng, Không Phải, là Sai, là Trái, là Quấy, như Chuyện THI PHI 是非 là Chuyện Đúng Sai, Chuyện Phải Trái, Chuyện Tốt Xấu của người đời. Tăng Quảng Hiền Văn có câu :
Lai thuyết THỊ PHI giả, 來說是非者,
Tiện thị THỊ PHI nhân. 便是是非人.
Có nghĩa :
Người đến nói chuyện Thị Phi (Nói tốt người nầy, nói xấu người kia...) tức là con người Thị Phi đó !
Ta thường gặp các từ như:
PHI THƯỜNG 非常: là Không phải bình thường, là vượt trội hơn bình thường. Ta nói là Khác Thường. Đôi khi cũng dùng để chỉ những chuyện tệ hại, xấu xa hơn bình thường.
PHI PHÀM 非凡 : là Không phải phàm tục, là Khác hơn người phàm tục. Ta nói là Siêu Phàm!
PHI PHÁP 非法 : là Không phải luật pháp. Làm chuyện Phi Pháp là làm chuyện trái với luật pháp. Ta nói là Phạm Pháp!
PHI LỄ 非禮 : là Không đúng với Lễ Nghĩa. Ta nói là Làm Bậy, như Phi Lễ với Phụ Nữ: là đem lời chọc ghẹo suồng sã, thô lổ với phụ nữ. Ta nói là "Dê đạo lộ!"
ĐỀ TIẾU GIAI PHI 啼笑皆非: là Khóc cười đều không phải. Ta nói là: Lở Khóc Lở Cười!
SỨC PHI VĂN QÚA 飾非文過 : là Trang sức để che cái
sai cho nó qua đi một cách đẹp đẽ. Tức là Dấu cái xấu đi để cho người
ta chỉ thấy cái tốt mà thôi. Câu nói có xuất xứ từ sách Hán Thư chương
64; trong tác phẩm SÃI VÃI của Nguyễn Cư Trinh khi luận về Tiểu Nhân Chi
Tu, cụ đã viết:
Nuôi cho lớn mà tu lòng bất hiếu;
Ăn cho no mà tu dạ bất trung.
Tu sắc lành để mà a ý khúc tùng;
Tu sắc lành để mà a ý khúc tùng;
Tu lời khéo để mà SỨC PHI VĂN QÚA.
A-PHI-LỢI-GIA CHÂU 阿非利加洲: là phiên âm của từ Africa, ta gọi tắt là CHÂU PHI.
Châu Phi Africa
Ngoài ra, ta còn có một lô từ 3 chữ được ghép bởi chữ PHI, như : PHI VĂN HÓA 非文化, PHI CHÍNH PHỦ 非政府, PHI QUÂN SỰ 非軍事, PHI VỤ LỢI 非務利, PHI CHÍNH THỨC 非正式...
Có tất cả 4 chữ được ghép bởi bộ PHI nầy. Tiêu biểu có:
KHÁO 靠 : là Dựa Dẵm, là Nương Nhờ, là Tin Tưởng. Như :
Ỷ KHÁO 倚靠 : là Dựa vào ai đó hoặc cái gì đó.
Y KHÁO 依靠 : là Nương nhờ vào ai đó.
KHẢ KHÁO 可靠 : là Có thể Tin Được.
THUYỀN KHÁO NGẠN 船靠岸: là Thuyền dựa vào bờ, ta nói là Thuyền Cặp bến.
Tục ngữ Trung Hoa có câu:
Tại gia KHÁO phụ mẫu, 在家靠父母,
Xuất ngoại KHÁO bằng hữu. 出外靠朋友。
Có nghĩa :
Ở nhà thì nương nhờ vào cha mẹ, còn ...
Đi ra ngoài thì nương nhờ vào bạn bè!
KHÁO SƠN THỰC SƠN, KHÁO THỦY THỰC THỦY 靠山食山,靠水食水: là Ở dựa vào núi thì ăn của núi, ở
dựa vào nước thì ăn của nước. Ý muốn nói "Sống ở đâu thì theo ở đó";
Sống gần núi rừng thì hái trái cây và bắt thú rừng trên núi mà ăn; còn
sống gần vùng sông nước thì đưa đò hoặc chài lưới bắt tôm cá mà ăn.
4. BỘ TRƯỜNG 長 :
甲骨文
|
金文
|
金文大篆
|
小篆
|
繁体隶书
|
Ta thấy :
Từ Giáp Cốt Văn đến Kim Văn Đại Triện đều là hình tượng của một người
đứng xây mặt đưa tay về phía trái, trên đầu có 2 sợi tóc dài bay về phía
sau; đến Tiểu Triện thì thành 3 sợi tóc và bên dưới là hình chữ TẨU 走 là Đi
và lại thêm một nét cong như là vạt áo bay về phía sau. Nên, TRƯỜNG là
DÀI, là mượn hình tượng cụ thể để diễn tả một ý trừu tượng. Vì chẳng
những có Ý là DÀI, khi TRƯỜNG 長 được Gỉa Tá mượn đọc là TRƯỞNG thì lại có nghĩa là LỚN nữa!
TRƯỜNG 長 là DÀI, cả về không gian và thời gian nữa, như : TRƯỜNG ĐOẢN 長短 : là Dài Ngắn, TRƯỜNG SAM 長衫: là Áo Dài... TRƯỜNG CỬU 長久: là Lâu Dài, TRƯỜNG KỲ 長期: là Cái Kỳ hạn lâu dài, TRƯỜNG DẠ 長夜: là Đêm Dài...
TRƯỜNG THIÊN TIỂU THUYẾT 長篇小說: Ta nói là Truyện Dài; Ngược lại ĐOẢN THIÊN TIỂU THUYẾT là Truyện Ngắn.
VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH 萬里長城: là
bức tường thành nổi tiếng của Trung Quốc liên tục được xây dựng bằng
đất và đá từ Thế kỷ thứ 5 TCN cho tới Thế kỷ thứ 16, để bảo vệ Đế quốc
Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ, người
Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ
và Mãn Châu.
VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH 萬里長城
TRƯỜNG 長 còn có nghĩa là SỞ TRƯỜNG 所長: Tức là Giỏi về một bộ môn nào đó, như TRƯỜNG VU ÂM NHẠC 長于音樂: là Giỏi về Âm Nhạc; TRƯỜNG VU TẢ TÁC 長于寫作 : là Giỏi vềviết lách, sáng tác... Ta có thành ngữ CÁC HỮU SỞ TRƯỜNG各有所長: là Mỗi người đều có Sở Trường riêng của mình.
Khi TRƯỜNG được Giả Tá đọc là TRƯỞNG thì có nghĩa là LỚN, như TRƯỞNG THÀNH 長成: là Lớn Lên, Ý chỉ Đã Khôn Lớn.
SINH TRƯỞNG 生長: Được sinh ra và lớn lên; như SINH TRƯỞNG ở MỸ: là Được sinh ra và lớn lên ở nước Mỹ.
TRƯỞNG còn có nghĩa là Nuôi Cho Lớn, như trong Kinh Thi, chương Tiểu Nhã, bài LẠO NGA:
... 父兮生我,母兮鞠我。拊我畜我,長我育我,顧我復我,出入腹我。欲報之德,昊天罔極! Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, phủ ngã súc ngã, TRƯỞNG ngã dục ngã, cố ngã phục ngã, xuất nhập phúc ngã. Dục báo chi đức, hạo thiên võng cực!
Có nghĩa :
...Cha
thì Sanh ta, mẹ thì mang nặng ta, ẳm bồng đút mớm, nuôi nấng dạy dỗ ta,
chăm nom ta lúc bệnh hoạn, Ra vào lo lắng cho ta. Muốn báo ơn sâu nầy,
ví như trời cao thăm thẳm!
Ta thường hay nghe nói CỬU TỰ CÙ LAO 九字劬勞 hay "Chín Chữ Cù Lao" cũng thế, là do 9 chữ: SANH, CÚC, PHỦ, SÚC, TRƯỞNG, DỤC, CỐ, PHỤC, PHÚC. Khi Kiều ở lầu xanh, cô cũng tủi thân mà nhớ đến công ơn của cha mẹ:
Nhớ ơn CHÍN CHỮ cao sâu,
Một ngày một ngã bóng dâu tà tà!
Dặm ngàn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế nầy.
TRƯỞNG còn chỉ người Đứng Đầu, như:
TRƯỞNG NAM 長男; TRƯỞNG NỮ 長女; TRƯỞNG BỐI 長輩...
GIA TRƯỞNG 家長; THỦ TRƯỞNG 首長; THUYỀN TRƯỞNG船長 ...
Cửu Tự Cù Lao: Nhớ ơn chín chữ cao sâu...
5. BỘ PHỤ 阜 :
甲骨文
|
金文
|
金文大篆
|
小篆
|
繁体隶书
|
Ta thấy :
Giáp Cốt Văn là hình tượng của một dãy những gò đất nổi cao lên, Kim
Văn thì như là một bến nước, đến Đại Tiểu Triện thì lại diễn tiến như là
những gò đất cao, là nơi mà ngày xưa dân cư thường tập trung để cư trú,
buôn bán, nên PHỤ còn chỉ nơi sung túc, dồi dào, như câu VẬT PHỤ DÂN
PHONG 物阜民豐 là Của cải dồi dào nhân dân sung túc. PHỤ 阜 khi ghép chữ được viết như thế nầy 阝nằm phía bên trái chữ viết, nên được gọi là "Lổ Tai Bên Trái" như các chữ: MẠCH 陌 là Đường trong ruộng, Đường Làng; LỤC 陸 là Phần đất nổi cao hơn mặt nước: LỤC ĐỊA 陸地...
NHƯ SƠN NHƯ PHỤ 如山如阜: là Như Núi như Đồi, chỉ địa thế của các vùng Cao nguyên cao thấp không đều nhau.
Có trên 240 chữ được ghép bởi bộ PHỤ nầy, tiêu biểu có:
TRẦN 陳 : là Bày ra, như TRẦN LIỆT 陳列 là Bày Trí, Trình bày ra cho mọi người xem. Ở TRẦN là Cởi bỏ áo cho người xem lưng!
TRẦN THUẬT 陳述, TRẦN TÌNH 陳情: là Dùng lời nói để kể lại sự việc một cách rõ ràng, để giải bày tình tiết, tình huống để bày tỏ nỗi lòng của mình.
TRẦN 陳 còn có nghĩa là Cũ, như TRẦN CỰU: là Cũ Kỹ, là Lâu đời. TRẦN BÌ 陳皮: là Vỏ Cam vỏ Quít để lâu ngày.
TRẦN là Họ Trần 陳, là nước Trần,
một nước chư hầu của nhà Châu thời Chiến Quốc. TRẦN còn là Triều đại
cuối cùng của Nam Triều trong thời kỳ Nam Bắc Triều, nổi tiếng với ông
vua tài tử, giỏi thơ từ, nhưng lại hoang dâm vô độ hiếm có từ xưa tới
nay: Trần Hậu Chủ 陳後主; giặc đánh tới nơi còn cùng với phi tần mỹ nữ uống rượu ca múa hát khúc Hậu Đình Hoa!
MINH TU SẠN ĐẠO, ÁM ĐỘ TRẦN THƯƠNG 明修棧道,暗渡陳倉: TRẦN THƯƠNG là tên của một huyện xưa, nay là Khu Đông của thành phố Bảo Kê thuộc tỉnh Thiểm Tây. Thành ngữ nầy
chỉ lúc Lưu Bang từ Hán Trung xuất binh để tấn công Hạng Vũ. Đại Tướng
Quân lúc bấy giờ là Hàn Tín, cố ý mê hoặc đối phương bằng cách cho binh
lính ngày đêm sửa lại sạn đạo là con đường núi được lót bằng cây để tiến
quân, nhưng lại âm thầm cho đại quân đi bọc đánh lấy Trần Thương, chiếm
đất Quan Trung giành thắng lợi. Sau nầy, hễ dùng hiện tượng giả để gạt
gẫm ai hầu đạt một mục đích nào đó, thì gọi là "Ám Độ Trần Thương". Đây
cũng là kế thứ 8 trong 36 kế mà người đời thường nhắc đến.
Minh tu sạn đạo, ám độ trần thương
LŨNG 隴 : là Thế đất cao thấp không đều của các vùng cao nguyên, như LŨNG ĐẦU 隴頭: là
Chỗ đất nhô cao lên, cũng có thể hiểu là Chỗ đầu núi xa xa, như 2 câu
cuối trong bài Đề Đại Dữu Lãnh Bắc Dịch của Tống Chi Vấn đời sơ Đường:
明朝望鄉處, Minh triêu vọng hương xứ,
應見隴頭梅. Ưng kiến LŨNG ĐẦU mai.
Có nghĩa :
Sáng sớm mai khi lên chỗ trông ngóng về phía quê, thì...
Thế nào cũng thấy được những cành mai nở sớm rộ lên ở đầu núi xa xa...!
LŨNG 隴 còn là tên riêng của tỉnh Cam Túc, nơi địa đầu biên giới, thường xảy ra các trận chiến với người Hung Nô, là chiến trường sắt máu ngày xưa. Ta hãy đọc bài LŨNG TÂY HÀNH của Trần Đào cũng ở đời Đường thì sẽ rõ:
誓掃匈奴不顧身,
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân,
五千貂錦喪胡塵。
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần.
可憐無定河邊骨,
可憐無定河邊骨,
Khả lân Vô Định hà biên cốt,
猶是春閨夢裡人。
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.
Có nghĩa :
Thề quét sạch Hung Nô chẳng màng đến thân mình.
Năm ngàn chiến sĩ đã chôn thây dưới lớp bụi của đất Hồ.
Đáng thương thay, những nắm xương bên bờ sông Vô Định.
Vẫn còn là người trong mộng xuân của các thiếu phụ ngày đêm mòn mõi trông ngóng đợi chàng về!
Tàn nhẫn và đau lòng thay cho chiến tranh! Chàng đã là nắm xương khô
trong gió cát bên bờ sông Vô Định, mà nàng vẫn còn ngày đêm khắc khoải
chờ đợi ngày chàng trở lại! Cũng với ý nầy, cụ Nguyễn Du nhà ta đã cho
cô Kiều khuyên Từ Hải đầu hàng:
Ngẫm từ dấy nghiệp binh đao,
Nắm xương VÔ ĐỊNH đã cao bằng đầu!
và ...
Làm chi để tiếng về sau,
Nghìn năm ai có khen đâu Huỳnh Sào?!
Lời khuyên qúa chí lý, "Chí Lý" đến nổi làm cho Từ Hải xiêu lòng, rồi... thân bại danh liệt, chết đứng giữa trời luôn!
Cô Kiều đã làm một việc... ĐÚNG hay SAI?!
Ưng kiến lũng đầu mai Do thị thâm khuê mộng lý nhân
Diễn nôm:
Thề quét Hung Nô chẳng nệ thân,
Năm ngàn tử sĩ thác ven sông.
Thương thay xương trắng bờ Vô Định
Trong mộng buồng xuân mãi ngóng trông!
Lục bát :
Hung Nô thề quét liều thân,
Năm ngàn chiến sĩ Hồ trần vùi thây.
Nắm xương Vô Định còn đây,
Là người trong mộng tháng ngày đợi mong!
Như thường lệ, trước khi kết thúc bài viết nầy, mời tất cả cùng đoán một chữ sau đây:
Lệ thủy can, lệ thủy lưu. 泪水乾,泪水流。
Tâm nan xả, nan phân ly. 心難捨,難分離 !
Có nghĩa :
Nước mắt khô, nước mắt chảy.
Lòng không nở, khó phân ly!
Đoán một chữ với 4 câu trên.
Hẹn bài viết sau, các bộ 8 nét (tt và hết).
Đỗ Chiêu Đức
khó học lắm đó
Trả lờiXóa