Xin giới thiệu cùng
độc giả hai bài thơ MƯA ĐÊM và ĐÊM THU của hai thi nhân Việt Nam thuộc hai thế
hệ khác nhau mà trong đó tâm sự của hai người có những điểm giống và khác nhau.
Cả hai bài thơ đều nói về “Mưa” và bày tỏ tâm sự của mình.
Người thứ nhất là vua
Trần Minh Tông (陳 明 宗) tên húy là Trần Mạnh (陳奣), sinh năm 1300, mất 1357. Người thứ hia
là bà Hồ Xuân Hương (chữ Hán:胡春香, 1772 – 1822) là một thi sĩ sống ở giai
đoạn cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, mà tiểu sử của bà , tới nay, vẫn còn
nhiều tranh cãi. Tác phẩm để lại hoàn toàn là thơ,
trong đó phần chữ Nôm có nhiều phẩm chất tốt cần nghiên cứu kĩ.
Bài thơ thứ nhất có
tựa là Dạ Vũ (Mưa Đêm) của vua Trần Minh Tông , là một bài thơ thất ngôn tứ
tuyệt, được sáng tác,30 năm sau nghi án giết oan cha vợ là Trần Quốc Chẩn. Thời
điểm sáng tác vào khoảng năm 1356 nhân dịp ngài về thăm đền thờ Trần Quốc Chẩn,
huyện Chí Linh, lúc nầy ngài đã trở thành Thái thượng hoàng. Năm sau ngài mất,
từ đó nhà Trần bắt đầu suy vi.
”Dạ vũ” (Mưa Đêm) là
bài thơ trữ tình, mang đậm nét suy tư trầm buồn của một vị vua trong cảnh đêm
mưa thu sắp tàn.
Bài thứ hai có tựa là Thu vũ (秋 雨): Mưa Thu. Hồ Xuân Hương sáng tác bài nầy
khi nghe tin Nguyễn Du bị bệnh nặng hơn 3 tháng (Tam xuân tích bệnh bần vô
dược/ Táp tải phù sinh hoạn hữu thân ) mà không thang thuốc vì nghèo
không tiền! Nàng động lòng trắc ẩn mến thương, viết bài thơ để đáp lại bài “Thu
Dạ” của Nguyễn Du .
Bài thơ nguyên tác
bằng chữ Hán, làm theo thể thơ Đường gồm 7 chữ, 8 câu nhưng được “cách tân” cho
phù hợp với phong cách thơ văn Việt Nam. Trong sự nghiệp văn chương đồ sộ của
bà, sáng tác hầu hết bằng chữ nôm, còn thơ chữ Hán rất ít chỉ độ 10 bài. Mặc dù
thơ chữ Nôm nhưng hình thức thì theo thể thơ Đường như đã trình bày ở trên.
Trời thu ảm đạm , mây
trời bao la khói sương mù mịt, mưa thu tí tách trên sân vắng, rơi nhặt thưa
trên tàu lá chuối nghe buồn làm sao! Nàng (HXH) ngồi một mình trong phòng vắng
nghe tiếng mưa rơi lòng buồn ảo não, nhớ người yêu Nguyễn Du , giờ nầy không biết
ra sao, tình xa vạn dậm biết bao giờ gặp lại? Ngâm xong bài thơ “Thu Dạ” nàng
bàng hoàng ngẩn ngơ, nhớ ơi là nhớ !
Bài thứ nhứt:
Dạ Vũ
Trần Minh Tông
Phiên âm Hán Việt:
Thu khí hòa đăng thất thự minh,
Bích tiêu song
ngoại đệ tàn canh.
Tự tri tam
thập niên tiền thác,
Khẳng bả nhàn
sầu đối vũ thanh.
(Trần Minh Tông)
Dịch nghĩa:
Mưa
đêm
Hơi thu hòa cùng ánh đèn làm mờ đi ánh sáng ban mai.
(Giọt mưa rơi) trên
tàu chuối xanh ngoài song cửa (tí tách) tiễn canh tàn.
Tự biết ba mươi năm
trước ta đã lầm lỗi,
Nay đành ôm hận mối sầu mà nghe tiếng mưa rơi
.
Dịch thơ:
Mưa Đêm
Thu
nhạt trăng mờ,buổi sớm mai
Bên song tàu
chuối tiễn canh dài
Ba mươi năm
trước,ta lầm lỡ
Ôm hận nghe
mưa, đếm giọt rơi.
Nguyễn Cang
dịch
Bài thứ hai,
Thu Vũ
Hồ Xuân Hương
Phiên âm Hán Việt:
Phiên âm Hán Việt:
Thiên cách vân
âm thảm bất minh,
Tiêu tiêu thu
vũ lạc nhàn đình.
Đoản trường
khô thụ chi đầu lệ,
Thư cấp hoàng
tiêu diệp thượng thanh.
Ngâm đoạn đê
mê thiên lý mộng,
Sầu khiên liêu
lạc ngũ canh tình.
Thâm khuê tối
khổ như hoa diện,
Nhất phiến sầu
dung hoạ bất thành.
Ngân Triều diễn
thơ,
Mưa Thu:
Mây mù ảm đạm,
mây mông mênh
Tí tách mưa
thu, sân vắng tanh.
Cây chết đầu
cành, rơi những lệ
,
Mưa khua
tiếng chuối, tiếng trầm thanh.
Đọc thư thờ
thẩn người xa cách,
Quạnh vắng sầu
giăng suốt ngũ canh.
Đắng lắm khuê
phòng hoa héo hắt,
Nỗi buồn se
thắt vẽ không thành.
Nguyễn Cang dịch
thơ,
MƯA THU
Trời mây sầu
thảm ngập mông mênh
Tí tách mưa
thu, sân vắng tanh
Cây chết, vắn
dài cành nhỏ lệ
Mưa rơi tàu
chuối tiếng trầm,thanh
Thơ ngâm dứt
đoạn , sầu ly biệt
Khắc khoải u
hoài thức trắng canh
Vò võ khuê
phòng hoa héo úa
Sầu riêng một
mảnh khéo đành hanh!
Nguyễn Cang
(15/10/2017)
rất hay
Trả lờiXóa