Trùng Cửu, Trùng là Trùng lắp, là lặp lại. Cửu là số 9. Nên Trùng Cửu
重九 là 2 số 9 được lặp lại, tức là ngày mùng 9 tháng 9 Âm lịch. Theo Kinh
Dịch thì số 9 thuộc Dương, nên Trùng Cửu còn được gọi là Trùng Dương
重陽. Đây là cái Lễ tiết cuối cùng sau mùa thu hoạch, rồi trời sẽ trở lạnh
để vào đông cho đến Tiết Đông Chí về, sẽ lại chuẩn bị để đón mừng năm
mới !
Ngoài việc được gọi là Tiết Trùng Dương 重陽節 ra, Trùng Cửu còn được gọi
là Tiết Đạp Thu 踏秋節, có nghĩa là Đạp lên lá vàng khô của mùa Thu, tức là
Đi dạo chơi trong mùa Thu trước khi trời trở lạnh. Trong dân gian xưa
còn gọi ngày này là Ngày Của Người Già : LÃO NHÂN TIẾT 老人節 hoặc KÍNH LÃO
TIẾT 敬老節. Có thể là do sau khi mùa màng được thu hoạch vào mùa Thu, con
cháu có nhiều món ngon vật quý để dâng hiến cho Ông Bà, hoặc đã có tiền
để chăm lo săn sóc đến đời sống của Ông Bà hơn. Khi ông bà cha mẹ già
đã quá cố, thì con cháu cũng nhân dịp Đạp Thu mà kéo nhau lên núi để Tảo
Mộ ( Ở những nơi có đồi núi thì người chết được chôn cất ở trên cao,
vùng đồng bằng để trồng trọt canh tác. Cho nên ta thấy Cụ Nguyễn Du tả
cảnh Tảo mộ của Tiết Thanh Minh là : " Ngổn ngang gò đống kéo lên, Thoi vàng hồ rắc tro tiền giấy bay, là
thế ! ). Vì vậy, mà Tiết Trùng Cữu còn được gọi là Tiết ĐĂNG CAO 登高節.
Ngoài ra, Tiết Trùng Cữu cón được gọi là Tiết THÙ DU 茱萸節, Tiết CÚC HOA
菊花節....
Cây lá và trái Thù Du ( trái cherry ở Mỹ )
THÙ DU là loại cây ăn trái được thu hoạch vào khoảng cuối tháng 6. Cây
lá có tính sát trùng tiêu độc, ngừa phong đón gió, nên trong ngày Lễ
Trùng Cữu dân gian hay bẻ một nhánh lá nhỏ giắt bên mình để " trừ tà
", để được bình an khoẻ mạnh nên ngày lễ nầy còn được gọi là Tiết Thù Du
là vì thế.
Hoa Cúc và tục lệ uống rượu Cúc trong ngày Trùng Cữu
Trong bài thơ " Bốn mùa ăn chơi " của người xưa thì câu thứ 3 là " Thu
ẩm Hoàng Hoa tữu ". Hoàng Hoa tức là Hoa Cúc đó, loại hoa có màu vàng và
nở vào mùa thu, nên được dùng để ủ rượu uống cho ấm vào những ngày cuối
thu lạnh lẽo nầy, để ngừa cảm cúm, như ta chích " flu shot " vào mùa
nầy ở Mỹ vậy ! Nên Tiết Trùng Cữu còn được gọi là Tiết Cúc Hoa là vì
thế !
Theo truyền thuyết thì ...
Vào thời Nam Bắc Triều, người của Nam Triều là Ngô Quân Chi thuộc nước Lương, ghi trong " Tục Tề Hài Ký " rằng :
Đời Đông
Hán, ở huyện Nhữ Nam có một người tên là Hoàn Cảnh, cha mẹ đều chết vì
bệnh ôn dịch ở cuối thu, nên anh ta quyết định lên núi tầm sư học đạo để
trừ ôn dịch ôn thần. Đạo nhân Phí Trường Phòng dạy cho phép tiên dưỡng
sinh và y học. Một năm, sau Trung Thu, đạo nhân gọi Hoàn Cảnh đến mà bảo
rằng : Mùng 9 tháng 9 năm nay, ôn thần lại đến gieo rắc bệnh dịch, con
hãy về quê mà cứu nhân độ thế. Nói đoạn bèn trao cho anh ta một cây
Thanh Long Kiếm, một bao lá Thù Du và một bình Rượu Cúc, căn dặn mọi
người phải lên cao mà tránh nạn.
Đến
hôm mùng 9 tháng 9, Hoàn Cảnh gọi hết bà con lối xóm cùng đăng cao lên
núi, giắt cho mỗi người một lá Thù Du và uống một ly rượu Cúc, rồi đơn
thân độc mã đứng chặn ở sườn núi, chiến đấu và tiêu diệt ôn thần. Từ đó
về sau không ai còn bị chết về bịnh dịch nữa, và cũng từ đó về sau mới
có tục Đăng Cao, cài lá Thù Du lên áo và uống rượu Cúc trong ngày Tiết
Trùng Cữu cho đến hiện nay.
Trùng Cữu xưa Trùng Cữu nay
Trong
văn học, nhất là trong Đường Thi, ngày Trùng Cữu luôn luôn được
nhắc đến một cách thân thiết gần gũi qua các thi nhân nổi tiếng như Lưu
Trường Khanh với ...
九日登李明府北樓 CỮU NHẬT ĐĂNG LÝ MINH PHỦ BẮC LÂU
九月登高望, Cữu nguyệt đăng cao vọng,
蒼蒼遠樹低。 Thương thương viễn thọ đê.
人煙湖草裡, Nhân yên hồ thảo lý,
山翠現樓西。 Sơn thuý hiện lầu tê. ( tây )
劉長卿 Lưu Trường Khanh
Diễn nôm :
NGÀY CHÍN LÊN BẮC LÂU CỦA LÝ MINH PHỦ
Xanh xanh cây cỏ xa.
Hồ mờ sương người vắng,
Lầu tây núi biếc nhòa !
Đỗ Chiêu Đức diễn nôm
Còn Thi tiên Lý Bạch với ...
九月十日即事 CỮU NGUYỆT THẬP NHẬT TỨC SỰ
昨日登高罷, Tạc nhật đăng cao bãi
今朝再舉觴。 Kim triêu tái cử trường.
菊花何太苦, Cúc hoa hà thái khổ,
Chú Thích :
Mùng 9 tháng 9 gọi là Tiết Trùng Dương, hái hoa cúc, uống rượu cúc, nhưng...
Mùng 10 tháng 9 gọi là Tiểu Trùng Dương, lại hái hoa cúc, lại uống rượu cúc.
Chỉ trong hai ngày, hoa cúc BỊ HÁI, BỊ VÙI DẬP đến 2 lần. Lý Bạch ví
thân phận đi đày của mình giống như là hoa cúc liên tiếp bị vùi dập vậy,
nên mới hạ 2 câu cuối là : " Cúc hoa hà thái khổ, Tao thử lưỡng Trùng
Dương ". Có nghĩa : Hoa Cúc sao mà lại khổ thế, phải gặp cái nạn của 2
lễ Trùng Dương nầy !
KHỔ 苦 là Khổ sở, Cực khổ. KHỔ cũng có nghĩa là ĐẮNG nữa ! Tân là Cay, nên Tân Khổ là Cay Đắng, Đắng Cay!
Diễn nôm :
Chuyện của ngày mười tháng chín
Hôm qua sau leo núi,
Sáng nay lại nâng ly.
Trùng Dương đến nhị kỳ !
Nhưng nổi tiếng và tiêu biểu nhất cho lễ Trùng Cữu là bài thơ của Thi Phật Vương Duy....
CỮU NGUYỆT CỮU NHẬT ỨC SƠN ĐÔNG HUYNH ĐỆ
Đôc tại dị hương vi dị khách,
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
Diêu tri Huynh đệ đăng cao xứ,
Thiên tháp thù du thiểu nhất nhân !
Chú Thích :
Khi làm bài thơ nầy Vương Duy chỉ mới 17 tuổi, đang xa nhà đến Trường
An để mưu cầu công danh. Nhà ông ở Bồ Châu, phía đông của núi Hoa Sơn,
nên mới đề tựa là " Ức Sơn Đông Huynh Đệ ". Bài thơ nổi tiếng với 2 câu
đầu mà không có người du tử nào không trầm trồ với 2 từ " dị hương, dị
khách ".
Nghĩa bài thơ :
Mùng chín tháng chín nhớ anh em ở phía đông núi.
Ta một mình ở nơi đất lạ làm người khách lạ, nên mỗĩ lần gặp Lễ Tết là
lại nhớ người thân thêm bội phần. Ta biết rằng ở nơi xa xôi kia, anh em
ta đang đăng cao trong ngày lễ nầy, và mỗi người đều có giắt một lá Thù
Du lên áo, chỉ thiếu có một người không được giắt là ta mà thôi !
Diễn nôm :
Xứ lạ quê người làm khách lạ,
Mỗi lần lễ tết nhớ khôn nguôi.
Anh em mùng chín đăng cao đó,
Đều giắt thù du thiếu một người !
Lục bát :
Đơn thân xứ lạ quê người,
Mỗi khi lễ tiết ngậm ngùi nhớ nhau.
Quê xa huynh đệ đăng cao,
Thù du giắt áo nghẹn ngào riêng ta !
hay quá
Trả lờiXóa