“Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng làm phải, làm lành”.
Đây
là hai câu trong bài “Khai Kinh”, một trong các bài kinh mà nguòi tín đồ Cao Đài
tụng trong lúc cúng tứ thời vào các giờ: 12 giờ khuya (thời tý), 6 giờ sáng
(thời mẹo), 12 giờ trưa (thời ngọ) và 6 giờ chiều (thời dậu).
Bài
“Khai Kinh” được diễn Nôm, theo thể thơ “song thất lục bát” từ một bài kinh chữ
Hán, bài “Khai Kinh Kệ”, nói về giáo lý của Đạo Cao Đài, đặt căn bản trên tinh
thần Tam Giáo, là Phật Giáo, Lão Giáo và Nho Giáo. “Tam Giáo dạy lấy tâm làm gốc, dạy làm điều phải, tránh điều quấy, dạy
làm điều thiện, tránh điều ác” (Yếu tri Tam Giáo, Tâm nguyên hiệp). (Hiền Tài
Nguyễn Văn Hồng, Giải Nghĩa Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, tái bản lần thứ nhứt tại
Hoa Kỳ, năm 2001, trang 41). (1)
Bài
viết nầy trình bày “làm phải, làm lành”
trong tinh thần Tam Giáo của Đạo Cao Đài, đặc biệt được qui định trong các bộ luật như Tân Luật, đạo luật năm
Mậu Dần 1938 của Đạo Cao Đài, và việc thể hiện “làm phải, làm lành” qua Tổ Chức Chánh Trị của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Tòa Thánh Tây Ninh (trước 1975) và Hội Thánh Phước Thiện trong mục đích “ban vui, cứu khổ”, làm ra thiệt tướng
việc “làm phải, làm lành” trong đời sống
thường nhựt của người tín đồ Đạo Cao Đài.
Làm
phải, tức làm việc không phạm luật pháp, mà nằm trong khuôn khổ luật pháp qui định
và cho phép. Một tập thể có nhiều thành viên, như tập thể quân đội, xã hội, tôn
giáo... đều có nội qui để qui định các
hoạt động của hội viên, giữ gìn trật tự và sự ổn định. Rộng lớn hơn, luật pháp
của quốc gia qui định những nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của công dân
trong tinh thần “thượng tôn luật pháp”.
Vậy, trong xã hội, làm phải, là làm những việc nằm trong khuôn khổ luật pháp quốc
gia cho phép. Về phần đạo, làm phải là tuân theo giới, luật của đạo, để trở thành
một tín đồ ngoan đạo, giúp cho việc tu học của mình ngày một tinh tấn.
Làm
lành, là làm việc thiện, tránh điều ác, tránh tạo ra ác nghiệp. Thực tế, việc
thiện và ác không phải lúc nào cũng đơn giản, dễ phân biệt và nhận ra ngay buổi
đầu. Từ xưa, quan niệm thiện, ác rất quan trọng trong Phật Giáo. Đức Phật có bài
kệ như sau:
“Các điều ác quyết định không làm,
Các điều thiện kính cẩn
cố làm.
Tự làm cho ý niệm trong
sạch,
Đó là lời dạy của
Phật.”
Bài
kệ ấy tóm tắt đường lối tu hành của đạo Phật. Trong đường lối ấy, bỏ ác, làm
thiện là bộ phận quan trọng. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:
“Mọi hành động đều do tâm hướng dẫn, do tâm làm chủ
và do tâm tạo nên. Nếu ta nói hay hành động với ý xấu, hoặc với ác tâm thì khổ
nảo và bất hạnh sẽ theo ta, như bánh xe lăn theo bước chân của con vật kéo xe.
Nếu ta nói hay hành động với ý tốt, với thiện tâm, thì hạnh phúc và an lạc sẽ
theo ta như bóng theo hình.” (Đinh Sĩ Trang, Lời Phật
dạy (kinh pháp cú), dịch giả xuất bản tại tiểu bang Queenslan, Úc Châu, 1998,
trang 16). (2)
Vậy
thế nào là thiện, là ác?
Thiện
là những điều có lợi cho người, hay đa số người. Ác là những điều hại cho người,
hay đa số người. Các điều ác có thể tóm thành mười điều (thập ác);
1.
Sát hại: Giết chết, đánh
đập, hành hạ người.
2.
Thâu đạo: Trộm cắp, hoặc
lấy trộm của người bằng những thủ đoạn không chánh đáng.
3.
Dâm dục: Tà dâm, những
dâm dục quá độ, say đắm ngũ dục cũng là điều ác.
4.
Vọng ngôn: Nói dối, không
nói ra có, có nói ra không.
5.
Ỷ ngữ: Nói quanh co,
dua nịnh, khiêu dâm, ngụy biện, trạng thái sức phi, lời nói không đứng đắn.
6.
Ác khẩu: nói lời hung dữ,
như chưởi mắng, nguyền rủa, dọa nạt.
7.
Lưỡng thiệt: Nói hai lưỡi,
gây sự bất hòa giữa ngưòi nầy với người khác.
8.
Tham: Ham muốn những điều
mình ưa thích, hoặc những cái gì làm cho có những điều mình ưa thích, nó làm cho
tâm luôn bị ràng buộc với cảnh, đặc biệt là cảnh ngũ dục.
9.
Sân: Giận, ghét, giận dữ
trước những điều trái ý, ghét bỏ những điều làm cho mình khó chịu.
10. Si:
Si mê, không biết nhân quả, si mê không tin chánh pháp.
Trái
với điều ác là thiện, không làm điều ác đã là thiện rồi. Nếu lại làm thêm những
điều có lợi, thì lại càng thiện hơn nữa. Trái với mười điều ác, là mười điều
thiện (thập thiện), như sau:
1.
Không sát hại, mà cứu mạng,
giúp đở, săn sóc trong lúc hoạn nạn.
2.
Không thâu đạo, mà bố
thí. (tài thí, pháp thí và vô úy thí)
3.
Không tà dâm, mà tiết dục,
nghĩa là tiết giảm bớt những sự dâm dục.
4.
Không vọng ngôn, mà nói
lời thành thực.
5.
Không ỷ ngữ, mà nói lời
đúng đắn, thẳng thắn.
6.
Không ác khẩu, mà nói lời
yêu mến, dịu ngọt, nhả nhặn. (ái ngữ)
7.
Không lưỡng thiệt, mà nói
lời hòa giải.
8.
Không tham, mà phóng xả,
nghĩa là đối với cảnh, thường bỏ qua, không để ý, đắm trước.
9.
Không sân, mà từ bi, biết
thương xót người và các loài hữu tình.
10. Không
si, mà trí tuệ, phân biệt lành dữ, chánh tà. (Bác sĩ Minh Tâm Lê Đình Thám, Phật
Học thường thức, Học Viện Phật Giáo Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam, 1963, trang 26)
(3)
Hoa
Nghiêm Kinh Sứ nói: “Ngăn ngừa những điều
sai quấy, chấm dứt những việc xấu ác, gọi là giới. Vì vậy, đức Phật vì hạnh
phúc của chúng sanh mà chế ra năm giới cấm cho hàng cư sĩ. Đây chính là năm
nguyên tắc sống của người Phật tử tại gia, cũng là yếu tố đem lại hạnh phúc cho
cá nhơn, gia đình và xã hội”.
Năm
giới gồm:
1.
Không sát sanh,
2.
Không trộm cắp,
3.
Không tà dâm,
4.
Không nói vọng,
5.
Không uống rượu. (Bao gồm
những chất gây nghiện, làm mất lý trí, ý chí)
Vậy
thế nào là giới? “Giới, tiếng Phạn là
Sila, tiếng Hoa dịch là thi la”. Sách Đại Thừa Nghĩa Chương, quyển 1, nói: “Thi la, tiếng Hoa, nghĩa là tươi mát (thanh
lương), cũng gọi là giới. Ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý gây nghiệp phiền não, nóng
bức như lửa, thiêu đốt chúng sanh. Giới có thể ngăn ngừa, dập tắt, nên gọi là tươi
mát. Tươi mát là phiên dịch đúng theo nghĩa từ “Sila”, còn “Sila” có thể ngăn
ngừa, chấm dứt những điều ác của ba nghiệp, nên gọi là giới.” (Thích Quang
Minh, Chân dung người Phật tử, nhà xuất bản Tôn Giáo, 2001, trang 88). (4)
Ngũ
giới chỉ áp dụng cho hàng cư sĩ tại gia, còn hàng xuất gia, tỳ kheo phải thọ
250 giới, sa di 10 giới, còn tỳ kheo ni phải thọ 350 giới, sa di ni cũng thọ 10
giới. (Thích Thiện Siêu, Cương Yếu giới luật, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản,
1997, Hoa Kỳ, trang 37). (5) “Thường thường,
ta hiểu giới là luật, luật là giới. Thực ra, giới là điều răn, luật là qui luật
thi hành giới. Không có luật, thì giới không có cách thi hành.
Luật, tiếng
Phạn là Upalaksa”
(Thích Thiện Siêu, sách đã dẫn, trang 31, 32). (5)
Đức
Phật Thích Ca thành đạo, mười hai năm đầu các hàng đệ tử Phật chỉ theo pháp mà
tu hành, trong đó, tu thiền là chánh, tu trí tuệ là thứ. Mười hai năm đầu, Đức
Phật chưa chế giới. Đến năm thứ mười ba Đức Phật mới chế giới, nhân xảy ra chuyện
Na Đề Tử ân ái với người vợ cũ, nên Đức Phật mới chế ra giới thứ nhứt, là bất dâm.
Tiếp theo, Đức Phật chế giới thứ hai, bất đạo, nhân tỳ kheo Đàn Ni Ca đốn cây của
vua để làm cốc, mà không có phép. “Bất dữ
nhi thủ” (người ta không cho thì không lấy). Đức Phật chế giới thứ ba, bất
sát, nhân tỳ kheo Vật Lực Già Nan Đề, theo yêu cầu của các tỳ kheo tu phép quán
bất tịnh, muốn hủy diệt thân, vì thấy thân của mình hôi hám, nên liền cầm dao sát
giúp. Đức Phật chế giới thứ tư, bất vọng ngữ, nhân một nhóm tỳ kheo đánh lừa tín
chủ bằng cách nói mình đã chứng A La Hán để được cúng dường. (Thích Thiện Siêu,
sách đã dẫn, trang 19-30). (5)
“Ba môn vô lậu học Giới, Định, Tuệ là con đường duy
nhất đưa đến Niết Bàn, an lạc. Muốn đến Niết Bàn, an lạc mà không theo con đường
nầy, thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi”
(Thích Thiện Siêu, sách đã dẩn, trang 6). (5)
Hiền
tài Lê Văn Thêm, trong lời tựa quyển sách “Giới, đường tới thiên đàng” giải thích:
“Ngưòi tu đã hành trì thập thiện, mà thực
hành được thập thiện thì thiên đàng liền đến, tức sau khi từ giả cõi đời, người
tu sẽ được thăng thiên, nghĩa là lên được cõi trời, thay vì tái kiếp trở lại
thế gian” (Hiền Tài Lê Văn Thêm, Giới, đường tới thiên đàng, Ban Thế Đạo Hải
Ngoại, Hoa Kỳ, xuất bản 2009, trang 7). (6)
Đạo
Cao Đài tiếp thu và tuân thủ cựu luật về giới luật của Phật Giáo. Đạo Cao Đài,
tức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh, được khai mở vào ngày rằm tháng
10 năm Bính Dần, 1926, tại chùa Gò kén, làng Long Thành, quận Châu Thành (sau đổi
thành quận Phú Khương, hiện nay là huyện Hòa Thành), tỉnh Tây Ninh, Việt Nam, mà
giáo lý căn bản là tinh thần Tam Giáo: Phật, Lão, Khổng. Đạo Cao Đài canh cải
luật lệ qui định về đạo pháp, thế luật và tịnh thất, gọi là Tân Luật, ban hành
năm 1927, (Tân Luật & Pháp Chánh Truyền,
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh, năm 1972, trang 243-253) (7), kỳ dư
phải theo luật lệ cũ, gọi là cựu luật. Một số điều khoản mới trong bộ Tân Luật được
ghi nhận như sau:
Đạo pháp:
Điều 21: Về ngũ giới cấm. Hễ nhập môn rồi phải trau giồi, giữ tánh
hạnh, cần giữ Ngũ Giới Cấm là:
1.
Nhứt Bất Sát Sanh, là chẳng nên sát hại sanh vật.
2.
Nhì Bất Du Đạo, là cấm trộm cướp; lấy ngang, lường gạt của người, hoặc mượn vay
không trả, hoặc chứa đồ gian, hoặc lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của
quấy để ý hại cho người, mà lợi cho mình, cờ bạc gian lận.
3.
Tam Bất Tà Dâm, là cấm lấy vợ người, thả theo đàn điếm, xúi giục người làm loạn
luân thường, hoặc thấy sắc dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt (vợ
chồng không gọi tà dâm).
4.
Tứ Bất Tửu Nhục, là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ, rối loạn tâm thần, làm
cho náo động xóm làng, hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vị.
5.
Ngũ Bất Vọng Ngữ, là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người,
chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói
hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng, thô
tục, chưởi rủa người, hủy báng Tôn Giáo, nói ra không giữ lời hứa.
Điều 22: Về tứ đại điều qui. Buộc phải trau giồi đức hạnh giữ theo tứ
đại điều qui là:
1.
Phải tuân lời dạy của bề
trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy
lễ hòa người. Lỡ làm lỗi, phải ăn năn chịu thiệt.
2.
Chớ khoe tài, đừng cao ngạo,
quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Đạo.
Đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp người hiền.
3.
Bạc tiền xuất nhập phân
minh, đừng mượn vay không trả. Đối với trên, dưới
đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
4.
Trước mặt sau lưng, cũng
đồng một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau. Đừng
thấy đồng đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm
riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà
trái trên, dễ dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người.
Thế luật:
Điều1: Hễ thọ giáo với một Thầy
thì tỉ như con một cha, phải thương yêu nhau, liên lạc nhau, giúp đỡ nhau, lấy
lòng thành thật mà đối đãi nhau, dìu dắt nhau trong đường Đạo và đường Đời.
Điều 5: Đối với hàng đạo hữu phải nuôi nấng cái tình thù tạc với nhau,
cho khắn khít cái dây liên lạc. Trong hàng tín đồ còn ở thế phải nhớ 2 dịp là
tang và hôn.
Điều 6: Việc hôn là việc rất trọng đời người. Phải chọn hôn trong người
đồng đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới được kết làm
giai ngẫu.
Điều 14: Trong bổn đạo xảy có người mãn phần qui vị thì chư tín đồ
trong họ phải chung cùng đến giúp và chia buồn với tang chủ. Mỗi Họ cũng nên
lập một Nghĩa Địa riêng.
Điều 15: Người làm đầu trong Họ, khi tang chủ mời, phải đến hiệp với
chư tín đồ trong Họ, làm lễ Cầu Siêu cho vong linh theo Tân Luật và đưa xác đến
mộ phần.
Điều 20: Kễ từ ngày ban hành luật này, người bổn đạo chẳng nên chuyên
nghề gì làm cho sát sanh, hại vật; chẳng được làm nghề gì mà tồi phong bại tục,
chẳng được soạn hay là ấn hành những truyện phong tình, huê nguyệt, không đặng
buôn bán các thứ rượu mạnh và á phiện là vật độc làm cho giảm chất con người.
Người
nào đã lầm lỡ rồi, hãy kiếm thế mà giải nghệ.
Đạo
luật năm Mậu Dần được ban hành năm 1938 qui định tổ chức chánh trị của Đạo Cao
Đài, gồm có ba Đài, là Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Bát Quái Đài.
Cửu Trùng Đài
có 2 cơ quan: Hành Chánh và Phổ Tế.
Hiệp Thiên Đài là
cơ quan bán hữu hình, vì nó thuộc về Pháp Giới. Hiện tướng của Hiệp Thiên Đài là
Pháp Chánh và Phước Thiện.
·
Pháp Chánh là cơ quan
bảo thủ chơn truyền, giữ gìn luật pháp, dìu dẫn và lập vị cho con cái Đức Chí
Tôn, trong khuôn viên luật pháp của Đạo đã thành lập.
·
Phước Thiện là cơ quan
tận độ, cốt để mở đường Thánh Đức cho toàn sanh chúng có đủ phương thế nhập vào
Thánh Thể. Phước Thiện là phương bảo tồn sanh chúng, tế khổn, phò nguy, vì
trong đời người không có sự khổ não nào bằng sanh, lão, bệnh, tử... Muốn thật hành
chánh nghĩa Phước Thiện, con cái Chí Tôn đói phải nuôi, rách cho mặc, tật nguyền
phải bão dưỡng, cô thế phải chở che, châu cấp người già cả, săn sóc kẻ bệnh hoạn...
Nói tóm tắt, là phải gánh mọi sự khổ trên đời nầy. Chơn truyền của Phước Thiện
lại còn phải thay thế cho Chí Tôn và Phật Mẫu, thật hành cơ cứu khổ bằng phưong
pháp là: Làm cha những kẻ không cha, làm mẹ những kẻ không mẹ, làm anh những kẻ
không anh, làm bạn những kẻ thiếu bạn, làm chồng làm vợ những kẻ không chồng,
không vợ, trong sự thương yêu cao quí và trong sự giúp đở chơn thành. Như thế,
mới có thể thực hành cơ quan cứu khổ để nơi mặt thế...
Bát Quái Đài:
Phần vô hình thuộc về quyền Thiêng Liêng
của Bát Quái Đài. (Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, Chánh Trị Đạo, Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh, Ban Thế Đạo Hải Ngoại tái bản lần thứ nhứt, Hoa Kỳ,
2003, trang 9-10). (8)
Đạo Luật năm Mậu Dần 1938, Điều 24: Mỗi Quận Đạo phải lập ra một nhà sở Phước Thiện chánh thức, nơi nhà sở
ấy mới đặng phép hội hiệp lo thương lượng làm ăn thuộc về Phước Thiện.
Điều
25: Mỗi Làng Đạo phải khai mở nhiều sở
lương điền, công nghệ, thương mãi. Các sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi ấy
phải chịu dưới quyền của sở Phước Thiện chánh.
Điều
26: Nơi mỗi nhà sở Phước Thiện chánh phải
lập một cơ quan thiết dụng như là:
·
Bảo Sanh Viện
|
|
·
Y Viện
|
|
·
Ấu Trỉ Viện
|
|
·
Dưỡng Lão Đường
|
|
·
Học Viện
|
Tóm lại, việc “làm phải, làm
lành” không những được minh thị qui định trong các văn bản luật của Đạo Cao
Đài, mà thể hiện cụ thể trong sanh hoạt thường nhựt của người tín đồ Cao Đài, như
điều 1 của Tân Luật qui định: “Hễ thọ
giáo với một Thầy thì tỉ như con một cha, phải thương yêu nhau, liên lạc nhau,
giúp đỡ nhau, lấy lòng thành thật mà đối đãi nhau, dìu dắt nhau trong đường Đạo
và đường Đời”. Thật vậy, sự tương trợ, giúp đở nhau trong cơn hoạn nạn, thương
yêu nhau như con một cha của người tín đồ Cao Đài thể hiện chân tình, thân thiết
qua tang lễ.
Điều 14 Tân Luật (Thế Luật) qui định: “Trong bổn đạo xảy có người mãn phần qui vị thì chư tín đồ trong họ
phải chung cùng đến giúp và chia buồn với tang chủ”.
Một tín đồ trong hương đạo, sau thời gian dài đau yếu, chửa trị tốn
kém, gia đình đã cạn kiệt tiền bạc. Lúc người thân tạ thế, việc tổ chức tang lễ
thật là một gánh nặng. Chứng kiến cảnh tương trợ, đùm bọc nhau của người tín đồ
Cao Đài trong hoàn cảnh như vậy, mới cảm thông được ý nghĩa thâm thúy của câu
kinh: “Gốc bởi lòng làm phải, làm lành”. Tín
đồ trong hương đạo, tuy không phải giàu có, dư giả gì, nhưng kẻ giúp công, người
giúp của, gạo, tiền chung đậu lại, xúm nhau quây quần dựng rạp, che mái làm nơi
hành lễ và để quan tài, ban trị sự hương đạo đứng ra chủ lễ, với sự chung lòng cầu
nguyện cho hương linh người quá cố được lên cõi “Thiêng Liêng Hằng Sống”. Ban
đồng nhi đọc kinh, với sự phụ trợ của ban lễ nhạc, tụng bài:
Kinh khi đã chết (trích đoạn):
Ba
mươi sáu cõi Thiên Tào,
Nhập
trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư,
Quê xưa trở, cõi đọa
từ,
Đoạt cơ thoát tục bấy
chừ tuyệt luân...
(Kinh
Thiên Đạo và Thế Đạo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ, Tòa Thánh Tây Ninh, 1992) (9)
Kinh cầu siêu (đầy đủ):
(Giọng Nam-Ai)
Đầu vọng bái Tây Phương Phật-Tổ,
A-Di-Đà Phật độ chúng dân. Quan-Thế-Âm lân-mẫn ân-cần, Vớt lê-thứ khổ trần đọa lạc. Đại-Thánh Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, Bố Từ-Bi tế-bạt vong hồn. Cứu khổ nàn Thái-Ất Thiên-Tôn, Miền âm-cảnh ngục-môn khai-giải. Ơn Đông-Nhạc Đế-Quân quảng-đại, Độ kẻ lành chế cải tai ương. Chốn Dạ-đài Thập-Điện Từ-Vương, Thấy hình khổ lòng thương thảm-thiết. Giảm hình phạt bớt đường ly-tiết, Xá linh-quang tiêu-diệt tiền-khiên, Đặng nhẹ-nhàng thẳng đến cung Tiên, Nơi Phước-địa ở yên tu-luyện. Xin Trời Phật chứng lòng sở-nguyện, Hộ thương-sanh u hiển khương-ninh. (9) |
Rồi
đến hôm di quan, đội thuyền bát nhã với đoàn đạo tỳ mặc đồng phục đen, đưa linh
cữu ra nghĩa trang. Đồng nhi tụng bài:
Kinh
đưa linh cữu (trích đoạn):
(Giọng Nam-Ai)
Cầu các Trấn Thần linh trợ lịnh,
Giữ chơn-hồn xa lánh xác trần. |
|||
Nam-Mô Địa-Tạng thi ân,
|
|||
Đưa đường Thiên-cảnh, lánh gần
Phong-Đô.
|
|||
Nam-Mô Tam-Trấn hư-vô,
|
|||
Oai-nghiêm độ rỗi Cao-Đồ qui-nguyên.
|
|||
Nam-Mô Tam-Giáo diệu-huyền,
|
|||
Tuyệt luân Bát-Nhã đưa thuyền độ
vong... (9)
|
Kinh
hạ huyệt (trích đoạn):
(Giọng Nam-Ai)
Thức giấc mộng huỳnh-lương vừa mãn,
Tiếng phồn-ba hết thoáng bên tai. |
|||
Giải thi lánh chốn đọa-đày,
|
|||
Chơn linh trong sạch ra ngoài
Càn-Khôn.
|
|||
Phép giải-oan độ hồn khỏi tội,
Phướn tiêu-diêu nắm mối trường-sanh. |
|||
Ơn nhờ hồng-phước Chí-Linh,
|
|||
Lôi-Âm tự-toại, Bồng-Dinh hưởng
nhàn... (9)
|
Nắm
đất cuối cùng của đoàn người tín đồ Cao Đài vừa phủ lên ngôi mộ mới, thuyền bát
nhã quay về Thánh Thất, tang gia mặt ràn rụa nước mắt trong cảm xúc, nức nở ngỏ
lời tri ân đồng đạo đã tận tình giúp đở để tang lể được chu đáo trong “tình
đời, nghĩa đạo”.
Giáo
lý Đạo Cao Đài “Gốc bởi lòng làm phải,
làm lành” cũng như giới luật nghiêm minh của ngũ giới cấm, tứ đại điều qui,
khuyên người tín đồ Cao Đài “làm lành, lánh dữ”, nhưng,
“Người ở thế, mấy ai
khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối
tội căn,
Tu tâm, sửa tánh ăn
năn,
Ba giềng nắm chặt, năm
hằng chớ lơi” (9)
Ngoài
ra, để giữ cho tâm trong sạch, an lạc, người tín đồ Cao Đài phải luôn giữ cho
tâm mình thanh tịnh, phải tu tâm.
Giới
Tâm Kinh (trích đoạn):
(Giọng Nam-Xuân)
Dễ
gì lộn kiếp đặng làm người,
May đặng làm người chớ dể-duôi. Lành dữ hai đường vừa ý chọn, Lành như tòng, dữ tợ hoa tươi.
Hoa tươi, tòng bá, khác nhau xa,
Tòng bá xơ rơ kém sắc hoa. Gặp tiết đông-thiên sương tuyết bủa, Chỉ còn tòng bá, chẳng còn hoa... (9) |
Tóm
lại, “làm phải, làm lành” trong Đạo Cao
Đài, không những được minh thị trong luật, mà còn thể hiện cụ thể qua sanh hoạt
thường nhựt của Hội Thánh Đạo Cao Đài và người tín đồ, làm gương cho mặt thế.
Trong
cuộc can qua tại Nam Kỳ Lục Tỉnh trong thập niên 1950, có rất nhiều trẻ mồ côi,
vì gia đình ly tán trong chiến tranh. Hội Thánh
đã quy tụ các em lại, thành lập “Thiếu Nhi Quân”, trụ sở gần Ngả Tư Ao
Hồ, vùng Thánh Địa, Tòa Thánh Tây Ninh. “Năm 1951, Thiếu Nhi Quân có 7 trung đội, do thiếu tá Nguyễn Văn Ngọ
làm chỉ huy trưởng và đại úy Võ Văn Nhơn là chỉ huy phó. (Hải Liên, Đạo Đức
Học Đường & Lê Văn Trung, đặc san Đạo Đức Học Đường và Lê Văn Trung, số 1,
tháng 12 năm 1998, Hoa Kỳ, trang 31). (10) Thiếu Nhi Quân do Hội Thánh thành lập
và nuôi dưỡng cho ăn học. Tuy cơm nước đạm bạc, bửa ăn chỉ có rau luộc chấm nước
muối, nhưng tinh thần hiếu học của Thiếu Nhi Quân rất cao. Sau nầy, nhiều cựu
Thiếu Nhi Quân đã đạt địa vị cao trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa và chánh
quyền.
Về
giáo dục: Hội Thánh thành lập Đạo Đức Học Đường, trường Lê Văn Trung và Viện
Đại Học Cao Đài. Ba cơ sở giáo dục của Đạo Cao Đài đã đào tạo rất nhiều nhơn
tài cho đất nước.
Về
việc tương trợ đồng bào ở trong vùng chiến tranh, chạy về tỵ nạn trong vùng
Thánh Địa. Đại đa số tín đồ cư ngụ trong vùng Thánh Địa có nguồn gốc từ miền
Nam Kỳ Lục Tỉnh và miền Trung. Cụ thể là số tín đồ cư ngụ từ Ngả Tư Ao Hồ, chạy
dài qua cửa số 7, cửa số 4. Những gia đình cư ngụ nơi đây làm nghề mộc, đóng
bàn ghế, giường, tủ, đều là người Nam Kỳ
Lục Tỉnh (miền Tây), như các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ, Châu Đốc, Bến
Tre... Sau một thời gian ổn định cuộc
sống, đa số đã trở thành khá giả, “an cư, lạc nghiệp” nơi vùng Thánh Địa. Có
một ấp điển hình cho cuộc sống của đồng bào vùng Quãng Nam, Quãng Ngãi tái định
cư trong vùng Thánh Địa Tây Ninh: “Ấp
Ninh Hòa, phía bắc Ninh Thạnh, nơi có một “đàn chim” ở xa mới đến, tìm đất lành
mà đậu. Mời bạn dùng một tô mì
Quãng, hoặc một dĩa bánh khoái, để nghe giọng Quãng Nam tan loãng dần, để biến
thành giọng Tây Ninh rặt. Bộ bạn quên rằng đất Long Hoa dung hợp dân tứ xứ
sao?Vậy mà họ coi nhau như bà con thân thích từ đời nào vậy.” (Lâm Thanh, tạp ghi Trên Đỉnh Long Hoa, đặc
san Tây Ninh Mến Yêu, 1999, trang 37). (11)
“Làm phải, làm lành” vẫn là châm ngôn cao
quí, lời khuyên chơn tình mà đầy đặn tình người, dù Tây Ninh là một tỉnh “nghèo
tiền, nghèo bạc”, nhưng lòng yêu thương không thiếu, quí trọng đạo đức, và giữ
vửng lòng “Tôn Sư, Trọng Đạo” như phát biểu của ông tỉnh trưởng tỉnh Tây Ninh
năm 1953 trong buổi lễ gắn Huân Chương Đệ Tứ Đẳng của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại
ân ban để vinh danh nhà giáo khả kính, cụ đốc Trần Văn Giảng:
“Thưa Ngài Thủ tướng,
Từ ngày có tin Ngài về viếng tỉnh nhà để gắn Bảo
Quốc Huân Chương cho ông Thầy cũ, thì cả Tây Ninh ai ai cũng hân hoan nô nức
sửa soạn đón tiếp đứa con cưng của tỉnh nhà, vị anh hùng của dân tộc…
Trọn nghĩa với Thầy, trọn đạo với nước, một dân tộc
như thế không thể suy vong.
Hôm vừa đáo nhậm tỉnh Tây Ninh, tôi có thốt rằng tôi
rất hân hoan mà được phụng sự đồng bào một tỉnh tuy nghèo tiền mà rất giàu tinh
thần và đạo đức. Thật quả không sai...”
Cụ
Đốc Trần Văn Giảng là thầy dạy của Thủ Tướng Chánh Phủ Nguyễn Văn Tâm, Đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc của Đạo Cao Đài, giáo sư Võ Thành Cứ và nhiều bác sĩ, kỹ sư,
công thương kỹ nghệ gia... (Lê Tấn Tài, Nhân Vật Miền Nam: Nhà giáo khả kính,
cụ Đốc Trần Văn Giảng, tập san Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long, Úc
Châu, số 3, năm 2009, trang 43-55). (12)
Từ
sau 1975, đạo đức suy đồi, tình ngưòi lạnh nhạt. Con người đối xử với nhau rất
“vô cảm”, chỉ biết cạnh tranh sanh tồn theo kiểu “mạnh được, yếu thua”. Nhà cầm
quyền có thế, có quyền, ban hành nhiều bộ luật “thất nhơn tâm”, hà hiếp người
cô thế. Tiếng súng “hoa cải” của gia đình Đoàn Văn Vươn trong vụ cưỡng chế thu
hồi đất tại huyện Tiên Lãng, tỉnh Hải Phòng, chưa đủ lớn để cảnh tỉnh “cường
hào ác bá” thời nay, cũng như các vụ cưỡng chế để thu hồi đất tại Văn Giang và
huyện Cái Răng, tỉnh Cần Thơ đã gây bao nhiêu căm phẩn cho nông dân thấp cổ, bé
miệng, bị mất trắng ruộng đất mà không biết kêu nài “công đạo” ở cửa quan nào,
nên hai mẹ con cô gái ở huyện Cái Răng đành phải “trần truồng như nhộng” để
phản đối bạo quyền.
Nền
văn hóa tôn trọng đạo đức cổ truyền, nhơn phẩm con người: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau
cùng”, nền văn hóa với tinh thần Tam Giáo, Phật, Lão, Khổng của Đạo Cao
Đài, nêu cao truyền thống cao đẹp của tổ tiên, của vùng đất Nam Kỳ Lục Tỉnh mà
hai dòng sông Đồng Nai và Cửu Long đã tưới mát tình tự dân tộc, mong được lưu
truyền và phát huy, để giữ vững phẩm chất cao quí của người Việt Nam chơn
chánh. Đây là chủ trương, là mong ước của nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai
& Cửu Long, Úc Châu, cũng là niềm mong ước của Cộng Động Người Việt Tự Do tại Hải Ngoại.
Viết
tại thành phố Sydney, Úc Châu, chúa nhựt ngày 01 tháng 07 năm 2012
Tài
Liệu Tham Khảo:
1.
Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng,
Giải Nghĩa Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, tái bản lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ năm 2001.
2.
Đinh Sĩ Trang, Lời Phật
dạy (kinh pháp cú), dịch giả xuất bản tại tiểu bang Queenslan, Úc Châu, 1998.
3.
Bác sĩ Minh Tâm Lê Đình
Thám, Phật Học thường thức, Học Viện Phật Giáo Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam,
1963.
4.
Thích Quang Minh, Chân
dung người Phật tử, nhà xuất bản Tôn Giáo, 2001.
5.
Thích Thiện Siêu, Cương
Yếu giới luật, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1997, Hoa Kỳ.
6.
Hiền Tài Lê Văn Thêm,
Giới, đường tới thiên đàng, Ban Thế Đạo Hải Ngoại, Hoa Kỳ, xuất bản 2009.
7.
Tân Luật & Pháp Chánh Truyền, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa Thánh
Tây Ninh, năm 1972.
8.
Ngài Khai Pháp Trần Duy
Nghĩa, Chánh Trị Đạo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh, Ban Thế Đạo
Hải Ngoại tái bản lần thứ nhứt, Hoa Kỳ, 2003.
9.
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh,
1992.
10. Hải
Liên, Đạo Đức Học Đường & Lê Văn Trung, đặc san Đạo Đức Học Đường và Lê Văn
Trung, số 1, tháng 12 năm 1998, Hoa Kỳ.
11. Lâm
Thanh, tạp ghi Trên Đỉnh Long Hoa, đặc san Tây Ninh Mến Yêu, 1999.
12. Lê
Tấn Tài, Nhân Vật Miền Nam: Nhà giáo khả kính, cụ Đốc Trần Văn Giảng, tập san
Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long, Úc Châu, số 3, năm 2009.
nên hướng thiện
Trả lờiXóa