Lê Tấn Tài
Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm
là một người đàn bà Việt Nam có thi tài đặc biệt trong đầu thế kỷ 18. Bà đã để
lại cho hậu thế nhiều thi phẩm bằng chữ Nho và diễn Nôm xuất sắc “Chinh Phụ
Ngâm”, đặc biệt, bà chia sẻ những tình cảm thương nhớ, đau khổ của người chinh
phụ trong cảnh vợ chồng ly biệt vì người chồng bận đi chinh chiến. Sau khi mất,
nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã giáng cơ ban cho đạo Cao Đài thi phẩm “Nữ Trung Tùng Phận”,
giáo hóa nữ tín đồ Cao Đài làm tròn trách vụ của người phụ nữ trong nhơn đạo và
thiên đạo, và 8 bài kinh tụng trong tang lễ của bộ kinh thế đạo.
Bài viết nầy sẽ
giới thiệu sơ lược tiểu sử của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm và hoàn cảnh xã hội, tạo cho
bà nguồn cảm hứng để diễn nôm thi phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn, cùng
trích dẫn thi phẩm “Nữ Trung Tùng Phận” và 8 bài kinh.
Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm,
hiệu là Hồng Hà, người làng Hiếu Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (Bắc Ninh).
Bà là con gái ông Đoàn Doãn Nghi, và là em gái ông giám sinh Đoàn Doãn Luân, (Dương
Quảng Hàm, Văn Học Việt Nam, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục xuất bản, không
ghi năm, trang 89) (1). Bà sanh năm Ất Dậu (1705), thời nhà Lê Trung Hưng, đời
vua Lê Hy Tông. Chúa Trịnh là Định Vương Trịnh Cán, và Chúa Nguyễn ở phương Nam
là Nguyễn Phúc Chu. (Đức Nguyên, Giới thiệu và Chú Thích “Nữ Trung Tùng Phận”,
Châu Đạo California, Hoa Kỳ, tái bản lần thứ nhứt, 2004, trang 12) (3), (Vương
Kim Hùng, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, Đặc San hội ái hữu trường Phan Thanh Giản & Đoàn
Thị Điểm & đồng hương Cần Thơ, Úc Châu, năm 2009, trang 128) (4).
Nữ sĩ từ nhỏ rất
thông minh, thi tài lỗi lạc. Xin trích dẫn vài giai thoại văn chương rất lý thú
về nữ sĩ Đoàn thị Điểm:
“... Anh Luân thấy
cô Điểm đang soi gương trang điểm nơi cửa sổ, liền ra câu đối:
Đối kính họa mi, nhứt điểm phiên thành lưỡng điểm.
Cô Điểm đối lại:
Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
Nghĩa là:
Trước gương vẽ mày, một điểm hóa thành hai điểm, cũng có nghĩa là một
cô Điểm hóa thành hai cô Điểm.
Tới ao xem trăng, một vừng tròn chuyển thành hai vừng, cũng có nghĩa
là một anh Luân chuyển thành hai anh Luân.
Sự tài tình ở đây
là cảnh rất thực, dùng được tên 2 người, đúng với cảnh vẽ mày và ngắm trăng”.
Một giai thoại
khác về nữ sĩ Đoàn Thị Điểm và Trạng Quỳnh:
“Một hôm, cô Điểm
đang ngồi bên cửa sổ thì Trạng Quỳnh tới, cô liền đọc một câu thách đối:
Song song là hai cửa sổ, hai người ngồi trong cửa sổ song song.
Trạng Quỳnh đối
không được, chịu thua, rút lui. Lần khác, cô Điểm gặp Trạng Quỳnh đi theo cô lên
phố Mía, Sơn Tây. Cô đứng lại, chờ Quỳnh tới, đọc một câu thách đối:
Lên phố mía gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường.
Trạng Quỳnh lại
chịu thua nữa, vì câu thách đối ra toàn là mía, đường, mật, kẹo, nên không thể
kiếm ra chữ để đối lại. Lần khác nữa, Trạng Quỳnh lại gần chỗ cô Điểm tắm, cô
biết vậy, liền ra một vế thách đối:
Da trắng vỗ bì bạch
Bì là da, bạch là
trắng, nhưng hai tiếng nầy theo nghĩa nôm là để tượng thanh, tiếng vỗ vào da thịt.
Trạng Quỳnh cũng đành chịu thua keo nữa”. (Đức Nguyên, Nữ Trung Tùng Phận,
trang 32-33) (3)
Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm
có thi tài đặc biệt, lời thơ tao nhã. Bà còn là một phụ nữ mẫu mực, nho phong,
đầy đủ hiếu thảo, nghĩa khí, giữ gìn tứ đức, tam tùng. (Đức Nguyên, Nữ Trung Tùng
Phận, trang 34) (3). Năm 37 tuổi, bà thành hôn với ông Nguyễn Kiều, tự Hạo Nhiên,
người huyện Từ Liêm, xứ Sơn Tây, đổ tiến sĩ năm 1715, làm quan tới chức binh bộ
tả thị lang (Dương Quảng Hàm, Văn Học Việt Nam, trang 89) (1). Bà thường dạy học
ở chốn kinh thành, học trò theo học cũng đông. Bà có soạn quyển Tục Truyền Kỳ bằng
chữ nho, (Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, nhà xuất bản Sống Mới, Hoa
Kỳ, 1979, trang 303 (2) và diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm (Dương Quảng Hàm, Văn Học Việt
Nam, trang 90) (1).
Nguyên văn Chinh
Phụ Ngâm bằng chữ nho do ông Đặng Trần Côn viết. Hoàn cảnh xã hội dưới thời Lê
Cảnh Hưng: Trong nước loạn lạc, quân lính phải đi đánh dẹp các nơi. Ông Đặng Trần
Côn thấy những cảnh biệt ly trong dân gian, mới soạn ra khúc nầy. Nhiều người
như ông Phan Huy Ích, bà Đoàn Thị Điểm đem dịch ra lời Nôm, nhưng bản dịch của
bà Đoàn Thị Điển hay hơn cả, nên còn truyền đến bây giờ... Tuy nhiên, có thuyết
cho rằng bản dịch Nôm nầy là của ông Phan Huy Ích, như Hoàng Xuân Hản trong tập
sách “Chinh Phụ Ngâm bị khảo xuất bản năm 1953 quả quyết, (Hà Như Chi, Việt Nam
Thi Văn Giảng Luận, nhà xuất bản Tân Việt, 1956, tập 1, trang 159-160) (5) và ông
Nguyễn Văn Xuân trong “Chinh Phụ Ngâm diễn âm tân khúc”, nhà xuất bản Lá Bối,
in lần thứ nhứt năm 1972, Sài Gòn, Việt Nam, (6). Trong “Lời Tựa”, ông Nguyễn Văn
Xuân xác quyết ông Phan Huy Ích là người diễn Nôm “Chinh Phụ Nhâm diễn âm tân
khúc” sau khi ông tìm thấy một bản “Chinh Phụ Ngâm diễn âm tân khúc” chép tay ở
Huế năm 1970. Tuy nhiên, cả hai luận thuyết của ông Hoàng Xuân Hản và Nguyễn Văn
Xuân không có cơ sở chắc chắn đủ sức thuyết phục.
Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm
mất ngày mồng 9 tháng 11 năm Mậu Thìn (1748) trên đường theo chồng, ông Nguyễn
Kiều, về giữ chức tham thi ở trấn Nghệ An (Hà Như Chi, sách đã dẫn, trang 158)
(5)
Sau khi mất, nữ
sĩ đã giáng cơ ban cho đạo Cao Đài thi phẩm “Nữ Trung Tùng Phận” (năm 1933) và
8 bài kinh tụng trong tang lễ (năm 1935).
Đạo Cao Đài được
khai mở vào ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần (1926) tại chùa Gò Kén (tức Từ Lâm Tự),
làng Long Thành, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam. Miền Nam Việt Nam lúc
bấy giờ là thuộc địa của Pháp, nên dân trí còn thấp, đặc biệt, nữ giới ít có cơ
hội đến trường học để học hỏi, mở mang kiến thức. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã giáng
cơ ban cho nữ phái đạo Cao Đài một thi phẩm nặng tính giáo dục. “Nữ Trung Tùng
Phận” là một thi phẩm độc nhứt vô nhị trong kho tàng văn chương Việt Nam, vì nó
không do một con người bằng xương bằng thịt nơi cõi phàm trần sáng tác, mà do một
đấng nữ tiên nơi Thượng Giới dùng huyền diệu cơ bút của tiên gia trong đạo Cao Đài
viết ra. Đấng nữ tiên đó là nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, mà chơn linh là một tiên nương
nơi Diêu Trì Cung của Đức Phật Mẫu...
“Đây là một tác
phẩm giáo dục, dạy Nữ phái về Nhơn đạo và Thiên đạo. Nhơn đạo gồm Tứ Đức và Tam
Tùng. Khi Nhơn đạo xong thì người phụ nữ cần tiến lên tu Thiên đạo, cầu sự giải
thoát khỏi luân hồi.
Trong thời Hạ
nguơn Mạt kiếp, khoa học tiến bộ vượt bực, làm cho nền văn minh vật chất lấn át
cả tinh thần, đưa nhơn loại xu hướng vào đường vật dục hơn là đạo đức tinh
thần, làm cho nền tảng đạo lý suy đồi, luân thường điên đảo.
May mắn cho nhơn
loại, Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần mở Đạo Cao Đài để cứu vớt
nhơn sanh, lập nên 5 nấc thang tiến hóa cho nhơn loại, mà khởi đầu là Nhơn đạo,
tiến lên kế trên là Thần đạo, rồi Thánh đạo, Tiên đạo và nấc thang thứ năm là
Phật đạo.
Trong phần Nhơn
đạo, Đức Chí Tôn chủ trương "Nho Tông Chuyển Thế", nghĩa là
lấy tinh hoa của giáo lý Nho giáo làm căn bản để giáo hóa nhơn sanh, chỉnh đốn
kỷ cương xã hội, khiến cho đời dần dần trở nên thuần lương đạo đức, đưa xã hội
loài người tiến đến hòa bình Đại đồng Huynh đệ.
Trong chiều
hướng đó, nhiều Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật, giáng cơ giảng dạy về Nhơn đạo,
trong đó có Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ viết nên tác phẩm “Nữ Trung Tùng Phận” có mục đích
giáo hóa Nữ phái, lấy Nhơn đạo làm nền tảng. Người phụ nữ cần phải trau giồi Tứ
Đức, thực hành Tam Tùng, giúp chồng làm nên sự nghiệp, dạy dỗ con cái thành
nhơn chi mỹ, hữu ích cho xã hội. Khi đã xong phần Nhơn đạo thì nương theo bóng
Đức Chí Tôn tìm lên những nấc thang tiến hóa cao hơn là Thần đạo, Thánh đạo,
Tiên đạo và Phật đạo, mà vượt qua bể khổ, thoát đọa luân hồi.
“Nữ Trung Tùng Phận” là
một áng văn chương tuyệt tác, siêu phàm, được Đoàn Tiên Nương giáng cơ viết ra
gồm 1401 câu thơ song thất lục bát, cùng một thể thơ với tác phẩm Chinh Phụ
Ngâm.
Tiên Nương Đoàn
Thị Điểm viết “Nữ Trung Tùng Phận” với
tất cả kinh nghiệm sống của Bà trong suốt kiếp sanh nơi cõi trần: Làm con trong
gia đình, phụng dưỡng cha mẹ già, làm em giúp đỡ lo lắng cho anh chị và các
cháu, rồi làm vợ, làm mẹ (mẹ nuôi), cộng với sự thông huệ của một bậc Thiên
Tiên nơi cõi thiêng liêng, nên tác phẩm “Nữ Trung Tùng Phận” xuất sắc hơn nhiều so với Chinh Phụ Ngâm về
phương diện nhẹ nhàng, thanh thoát, đầy lòng bác ái, vị tha.
Đức Chí Tôn có
nói trước rằng: "Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong." nghĩa
là: Nền Phong hóa của người Việt Nam ngày ấy sẽ trở thành nền Phong hóa của
nhơn loại, tức là nhơn loại ngày sau sẽ học tập và làm theo Phong hóa Việt Nam.
Do đó, cần phải
củng cố và chấn chỉnh nền Phong hóa nước nhà cho tốt đẹp, vẹn toàn thì mới làm
gương mẫu được.
Nền Phong hóa đó
phải bắt đầu từ gia đình, mà người phụ nữ
là người đảm nhiệm vai tuồng quan trọng nhứt. Cần phải hướng dẫn người phụ
nữ trở lại nền nếp tốt đẹp thời xưa với Tứ Đức, Tam Tùng, nhưng chỉ nên giữ lai
phần tinh hoa tốt đẹp, bỏ bớt những điều làm giảm nhân cách phụ nữ và bất bình
đẳng với Nam phái, cho hợp với trình độ tiến hóa của nhơn sanh ngày nay.
Nội dung của tác
phẩm Nữ Trung Tùng Phận là lời tự thuật của một phụ nữ có sắc đẹp, có tài năng
và đức hạnh, kể từ lúc tuổi thanh xuân, rồi có chồng, theo về nhà chồng, phục
vụ cho chồng và gia đình chồng, sanh con đẻ cái, nuôi dạy con cho khôn lớn, đến
lúc tuổi già, răng long đầu bạc, qui y lo việc tu hành và thoát xác về Tiên.
Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.
Tiên Nương Đoàn
Thị Điểm mượn lời tự thuật nầy để giáo dục Nữ phái, lúc tuổi trẻ phải lo cho
tròn Nhơn đạo, giữ vững Tứ Đức, Tam Tùng, giúp chồng và gia đình nhà chồng,
nuôi dạy con cái lớn khôn nên người. Đến lúc trung niên, thì xong phần Nhơn
đạo, người phụ nữ cần tiến lên tu phần Thiên đạo thì mới mong giải thoát khỏi
kiếp luân hồi. (Thiên đạo là đạo tu giải thoát để lên cõi Trời. Đó là Tiên
đạo và Phật đạo).
Tác phẩm nầy
được Bà giáng cơ bắt đầu viết vào ngày 26-2-Quí Dậu (1933), nên nội dung tác
phẩm cũng căn cứ vào hiện tình xã hội của nước Việt Nam ta thời đó. Đó là thời
mà miền Nam Việt Nam (Nam Kỳ) là thuộc địa của nước Pháp, Trung Kỳ thì vẫn do
vua quan nhà Nguyễn cai trị, nhưng đặt dưới sự bảo hộ của Pháp, xã hội vẫn còn
phong kiến như thuở Bà Đoàn Thị Điểm sanh tiền, Nữ chưa được bình quyền cùng
Nam.
Mở đầu tác phẩm,
Tiên Nương Đoàn Thị Điểm thúc giục Nữ phái phải lo học tập văn hóa trong lúc
tuổi còn niên thiếu, vì Bà cho rằng phụ nữ chưa được bình quyền cùng nam là vì
dốt nát, nên bị khinh rẻ.
Dụng văn hóa trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng
Trong gia đình,
người mẹ gần gũi, thân cận với con nhiều hơn cha, nên việc giáo dục của mẹ đối
với con lúc con còn thơ bé rất là quan trọng.
Trong phần tiếp theo là lời Mẹ dạy con trai
và con gái.
Mẹ dạy con trai: (từ câu 357 đến 592: 236 câu)
Dạy con đạo Nhơn luân, gồm Ngũ luân: Cách
cư xử đối với quốc gia, đối với cha mẹ, đối với vợ, đối với anh em và đối với
bạn bè
Đối với quốc gia dân tộc, phải có lòng yêu
nước và lòng trung thành (Trung):
Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
Vạch lưng con viết thử để dành.
Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,
Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.
Vạch lưng con viết thử để dành.
Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,
Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.
Dạy con phải có hiếu với cha mẹ (Hiếu):
Con ví biết trọng nghì phụ tử,
Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.
Đừng làm nhục tổ hổ tông,
Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.
Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.
Đừng làm nhục tổ hổ tông,
Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.
Dạy con phải biết tôn kính thầy (Kính):
Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ,
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
Học hay kế nhiệm mưu mầu,
Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
Học hay kế nhiệm mưu mầu,
Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.
Dạy con trai khi lớn lên, có vợ thì phải
biết thương yêu, giúp đỡ vợ nhà, ăn ở cho có tình nghĩa, thủy chung:
Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,
Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
Dầu cho non nước đổi dời,
Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.
Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
Dầu cho non nước đổi dời,
Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.
Mẹ dạy con gái: (từ câu 593 đến 712: 120 câu).
Con gái phải lo trau giồi Tứ Đức: Công,
Dung, Ngôn, Hạnh, và giữ lấy Tam Tùng: Tùng phụ, Tùng phu, Tùng tử.
Mẹ dạy con gái về Dung:
Phàm phận gái đứng hàng khuê các,
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.
Mẹ dạy con gái về Ngôn:
Đối với khách đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng, phục người mới ngoan.
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng, phục người mới ngoan.
Mẹ dạy con gái về Công:
Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.
Dạy con gái về Hạnh:
Sửa từ nết ngày thâu tập tánh,
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới lõa lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới lõa lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.
Dạy con gái lúc chưa chồng, thì ở nhà phải
tùng Cha (Tùng phụ) và phải hiếu thảo với cha mẹ:
Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ, học văn.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.
Rán theo cha học lễ, học văn.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.
Dạy con gái khi có chồng thì phải tùng
chồng (Tùng phu) và giữ lòng chung thủy với chồng:
Đến lúc đã chung phòng hòa hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay
Phải tùng phu là phép xưa nay
Người phụ nữ, nếu gặp phải số phận bạc bẽo,
gãy gánh giữa đường thì điều cao quí nhất vẫn là giữ lòng chung thủy với chồng,
ở vậy nuôi con và dạy dỗ con, hy sinh bản thân mình để tạo sự nghiệp cho con,
hơn là tái giá, bước thêm bước nữa (Tùng tử):
Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết Tam Tùng.
Hoặc là tròn nghĩa thủy chung,
Hoặc là chia dạ não nùng với con.
Theo nương con cho hết Tam Tùng.
Hoặc là tròn nghĩa thủy chung,
Hoặc là chia dạ não nùng với con.
Tu thì nên luyện đạo và sẽ được đắc đạo tại
thế:
Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần xa lánh phàm tâm.
Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt, giải phần hữu sinh
Diệt lục trần xa lánh phàm tâm.
Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt, giải phần hữu sinh
Ngũ khí thanh diệt trừ quả kiếp,
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần linh Thiên.
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần linh Thiên.
Rán cầm viết ghi lại những kinh nghiệm sống
của đời mình để lưu lại khuyên dạy Nữ phái:
Gắng cầm viết nín hơi sống rốt,
Đề năm vần khắc cốt nữ lưu.
Dứt tình ái, giải sầu ưu,
Hễ thương thì cũng lo mưu giữ mình.
Đề năm vần khắc cốt nữ lưu.
Dứt tình ái, giải sầu ưu,
Hễ thương thì cũng lo mưu giữ mình.
Nhiệm vụ đã xong, linh hồn thoát xác về
Tiên, hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn:
Buông ngọn viết vào làn mây
trắng,
Hễ có thương nhớ dạng là hơn.
Cảnh Thiên gởi tấc hương hồn,
Đề câu tiết nghĩa vĩnh tồn hậu lai.
Hễ có thương nhớ dạng là hơn.
Cảnh Thiên gởi tấc hương hồn,
Đề câu tiết nghĩa vĩnh tồn hậu lai.
Đời đời danh chói Cao Đài.
Tác phẩm Nữ
Trung Tùng Phận của Tiên Nương Đoàn Thị Điểm viết ra vào năm 1933, lúc đất nước
ta còn phong kiến và Pháp thuộc, nên thích hợp với hoàn cảnh xã hội thời đó,
nhưng so với hoàn cảnh của người phụ nữ thời nay có nhiều đổi mới thì tác phẩm
có một số chi tiết không còn thích hợp nữa”. (Đức Nguyên, Giới thiệu và chú thích
“Nữ Trung Tùng Phận”, trang 36-44) (3)
Sau đó 2 năm,
vào năm Ất Hợi (1935), Tiên Nương Đoàn Thị Điểm giáng cơ ban cho Đạo Cao Đài 8
Bài Kinh thế đạo dùng để tụng trong tang lễ:
Xin trích dẫn vài đoạn trong mỗi bài kinh:
... Ơn tấc đất ngọn rau nên nặng,
Đạo quân-vương chữ dặn nơi lòng....
Đạo quân-vương chữ dặn nơi lòng....
Kinh Tụng Khi Thầy Qui Vị
Đường công-danh càng nhìn quảng-đại,
Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên.
Nghĩa thầy trò nghĩ lại khó quên.
Vái cùng Sư-Phụ linh thiêng,
Chứng lòng đệ-tử đáp-đền ơn xưa.
Dầu hoạn-lộ chưa vừa sở nguyện,
Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.
Dầu cửa quyền trọng tiếng chăn dân.
Ơn cha sanh-hóa ra thân,
Ơn Thầy giáo-huấn cũng gần như nhau...
Sau vua, thầy,
thì tổ phụ là các đấng có công tạo lập, lưu truyền các thế hệ về sau:
Giọt máu mủ lưu truyền tại
thế,
Con nhẫng mong truyền kế
lửa hương...
Công sanh thành,
nuôi dưỡng của cha mẹ là trọng:
Ơn cúc dục cù-lao mang nặng,
Lỡ thân côi mưa nắng khôn
ngừa.
Âm-dương cách bóng sớm
trưa,
Thon-von phận bạc không vừa
hiếu thân...
Ơn cúc dục cù-lao mang
nặng,
Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.
Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa.
Âm-dương cách bóng sớm
trưa,
Thon-von phận bạc không vừa
hiếu thân...
Kế đến, là bà con, thân bằng cố hữu
cũng đã chia sẻ buồn vui của cuộc đời:
Kinh Cầu Bà Con Thân Bằng Cố Hữu Đã Qui Liễu
... Đã tầng chịu khó khăn
kiếp sống,
Định tâm thần giải mộng Nam Kha.
Định tâm thần giải mộng Nam Kha.
Càn khôn để bước Ta bà,
Đoạt cơ thoát tục tạo nhà
cõi Thiên...
Anh em cùng sống chung dưới mái nhà, cùng
chia ngọt, xẻ bùi:
Niềm thủ-túc đã đành vĩnh-biệt,
Càng nhớ nhau, càng tiếc tình nồng.
Càng nhớ nhau, càng tiếc tình nồng.
Thân nhau từ buổi lọt lòng,
Chén cơm miếng cá cũng đồng
chia nhau.
Câu chọc ruột còn đau-đớn
bấy,
Huống âm-dương hết thấy mặt nhau,
Huống âm-dương hết thấy mặt nhau,
Rẽ phân cốt nhục đồng-bào,
Cảnh thiên cõi tục lẽ nào
không thương...
Đặc biệt hơn cả,
người phối ngẫu là người đã chia sẻ hạnh phúc, cùng chung chịu gian truân trong
cuộc sống, là người đầu ấp, tay gối, nay phải biệt ly, đâu còn cảnh nào đau buồn
hơn cảnh “sanh ly, tử biệt”. Sau đây là 2 bài kinh đầy đủ:
Nhắn mưa gởi gió đưa thương,
Từ đây thiếp tỏ đoạn-trường với ai?
Càng nhớ đến những ngày hội ngộ,
Càng ngổn-ngang mối nợ tình-chung.
Càng ngổn-ngang mối nợ tình-chung.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Hiển linh chứng-chiếu tấm lòng tiết-trinh.
Dầu sống sót cũng đành gọi thác,
Vui chi còn man-mác tơ duyên.
Vui chi còn man-mác tơ duyên.
Thiệt-thòi cam phận thuyền-quyên,
Chứa-chan giọt lệ cửu tuyền cuộn trôi.
Chàng đã đặng phủi rồi nợ thế,
Xin hiển-linh giúp kẻ góa thân.
Xin hiển-linh giúp kẻ góa thân.
Chở-che khỏi kiếp phong-trần,
Gìn gương liệt-nữ hồng quần để soi.
Chàng dầu đặng thảnh-thơi cảnh trí,
Hộ dâu con giữ kỹ nhơn-luân.
Hộ dâu con giữ kỹ nhơn-luân.
Chàng dầu vinh-hiển cảnh Thần,
Gởi trong giấc mộng đặng gần cùng nhau
Chàng dầu hưởng Thiên-Tào quyền phép,
Đỡ đường trần chật hẹp thân côi.
Đỡ đường trần chật hẹp thân côi.
Chàng dầu cung Ngọc an ngôi,
Xin thương thân thiếp nợ đời còn mang.
Gởi hồn phách cho chàng định số,
Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.
Gởi kiếp căn chàng mở dây oan.
Thiếp cam bao tóc thờ chàng,
Rót chung ly biệt đôi hàng lụy sa!
Kinh Tụng Khi Vợ Qui Liễu
Tưởng tơ-tóc cùng nhau trọn
đạo,
Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.
Theo tùng phu sửa áo nâng khăn.
Âm-dương đôi nẻo chia phân,
Túy-sơn Vân-mộng mới gần
đặng nhau.
Khi để bước phòng đào lạnh
ngắt,
Mảnh tàn-y dường nhắc nghi dung.
Mảnh tàn-y dường nhắc nghi dung.
Thấy cơn tử-biệt não-nùng,
Hương thề tắt ngọn lạnh
lùng tơ duyên.
Càng nhớ đến lời nguyền
buổi trước,
Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng.
Thẹn non sông chưa ngớt tình nồng.
Phụ-phàng chi bấy Hóa-công,
Lòng nào mà lại cắt lòng
không đau.
Nối Tông-Tổ biết bao nghĩa
trọng,
Cơ nghiệp còn lưu mộng tang-du.
Cơ nghiệp còn lưu mộng tang-du.
Mập-mờ nhắn nguyệt đêm thu,
Kẻ còn người mất ai sầu hơn
ai?
Vói nhắn khách Dạ-đài có
tưởng,
Vậy bóng hình để tướng nơi nao?
Vậy bóng hình để tướng nơi nao?
Hay là lạc bước nguồn đào,
Để thương cho mặt anh-hào
đeo mang.
Ngồi quạnh-quẻ đèn tàn một
bóng,
Chịu góa thân tuyết đóng song thu.
Chịu góa thân tuyết đóng song thu.
Bước Tiên nàng đã ngao-du,
Đoái tình thương kẻ ôm cầu
khóc duyên.
Hay nàng đặng nhập miền
Cực-Lạc,
Đoái tưởng người chưa thoát trầm-luân.
Đoái tưởng người chưa thoát trầm-luân.
Ngước trông níu ngọn
phất-trần,
Chổi Tiên quét sạch nợ-nần
oan-gia.
Dâng mảnh tâm gọi là của
lễ,
Chén ly tình là lệ ái-ân.
Chén ly tình là lệ ái-ân.
Dầu chi cũng nghĩa chí
thân,
Khối tình còn có một lần
đây thôi.
(Kinh thiên đạo
và thế đạo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh, 1992, trang 104-116))
(7), (Thông Huyền Quang, Cụ Phan Thanh Giản và bà Đoàn Thị Điểm trong Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ, Đặc San hội ái hữu trường Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm
& đồng hương Cần Thơ, Úc Châu, 2007, trang 70-73) (8)
Tất cả 8 bài
kinh trên đây đều được tụng theo giọng Nam Ai, “là giọng ngâm theo điệu cổ nhạc
Nam Ai, có tính cách buồn bả, bi ai, nên nhạc đi theo nhịp chậm rải. (Hiền Tài
Nguyễn Văn Hồng, Giải nghĩa kinh thiên đạo và thế đạo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa
Thánh Tây Ninh, 1991, trang 28) (9)
Tang lễ, dĩ nhiên,
luôn luôn đượm vẻ bi ai. Trong khung cảnh buồn bả đó, khi cúng hương linh người
quá cố, giọng tụng kinh Nam Ai của ban đồng nhi áo não, hòa với tiếng đàn trầm
buồn của ban lễ nhạc, khiến cho thân bằng quyến thuộc không ai cầm được nước mắt.
Lời kinh đoan trang, bi thiết của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm làm cho tang lễ đậm tình
thân thương, mến tiếc người quá cố, nhứt là hai bài kinh tụng khi chồng qui vị,
hoặc khi vợ qui liễu, lời kinh thật là thống thiết.
Thi phẩm của nữ
sĩ Đoàn Thị Điểm trong kinh sách đạo Cao Đài sử dụng thể thơ song thất lục bát,
là một thể thơ phối họp giữa thơ Đường luật (hai câu 7 chữ), tiếp theo 2 câu lục
bát (câu 6 và câu 8 chữ). Thể thơ lục bát là thể thơ thuần túy của Việt Nam.
Thi phẩm “Nữ
Trung Tùng Phận” và 8 bài kinh tụng trong tang lễ của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm có sử
dụng từ gốc Hán và điển tích, giống như các thơ cổ, làm cho nội dung hơi khó hiểu,
trừ phi hiểu biết tường tận điển tích thì mới cảm nhận được ý nghĩa cao siêu của
bài kinh. Thi phẩm “Nữ Trung Tùng Phận” nhằm mục đích giáo dục nữ phái Cao Đài
về nhơn đạo và thiên đạo. Người nữ tín đồ Cao Đài được khuyến khích giữ gìn Tam
Tùng, Tứ Đức. Khi hoàn thành xong nhiệm vụ phần nhơn đạo, nữ tín đồ Cao Đài cần
tiến lên thực hành thiên đạo, hoàn thành con đường tu vô vi cầu sự giải thoát.
(Lê Tấn Tài, Tinh Thần Tam Giáo Đạo Cao Đài trong bối cảnh toàn cầu hóa, tập
san Đồng Nai & Cửu Long, số 1, 2007, trang 80-99, (10), tập san Đồng Nai
& Cửu Long, số 2, 2008, trang 198-227(11)
Tóm lại, thi phẩm
“Nữ Trung Tùng Phận” và 8 bài kinh là tác phẩm đặc biệt do một vị nữ tiên giáng
cơ ban cho, không giống như những thi phẩm bình thường do một người đang sống sáng
tác, đáng được tán dương và lưu truyền, để duy trì và phát huy nền đạo đức của
tôn giáo Cao Đài. Cao Đài là một tân tôn giáo phát xuất từ tỉnh Tây Ninh năm
1926, một vùng đất của Đồng Nai & Cửu Long, với nền văn hóa mới nhưng giáo
lý vẫn duy trì tinh thần Tam Giáo của Phật, Lão, Khổng cổ truyền, là một đặc thù
của tinh thần văn hóa đa nguyên, cởi mở, chấp nhận canh tân, khác với nền văn hóa
cổ, thủ cựu của kinh thành Thăng Long hoặc Thuận Hóa.
Viết tại Thị Trấn Campbelltown,
tiểu bang NSW, Úc Châu
Thứ ba, ngày 15 tháng
11 năm 2011
Nhân lễ kỷ niệm ngày
khai đạo Cao Đài.
Tài liệu tham khảo:
1. Dương
Quảng Hàm, Văn Học Việt
Nam, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục xuất bản, không ghi năm.
2. Dương
Quảng Hàm, Việt Nam Văn
Học Sử Yếu, Sống Mới xuất bản, Hoa Kỳ, 1979
3. Đức
Nguyên, Giới thiệu và chú thích “Nữ Trung Tùng Phận”,
Châu Đạo California, Hoa Kỳ, tái bản lần thứ nhứt, 2004
4. Vương
Kim Hùng, nữ sĩ Đoàn Thị
Điểm, Đặc San hội ái hữu trường Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm & đồng
hương Cần Thơ, Úc Châu, 2009, trang128-131
5. Hà
Như Chi, Việt Nam Thi Văn
Giảng Luận, quyển 1, nhà xuất bản Tân Việt, 1956.
6. Nguyễn
Văn Xuân, Chinh Phụ Ngâm
diễn âm tân khúc, nhà xuất bản Lá Bối, Sài Gòn, 1972
7. Kinh thiên đạo và thế đạo, Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh, 1992
8. Thông
Huyền Quang, cụ Phan Thanh
Giản và bà Đoàn Thị Điểm trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đặc San hội ái hữu trường
Phan Thanh Giản & Đoàn Thị Điểm & đồng hương Cần Thơ, Úc Châu, 2007,
trang 70-73
9. Hiền
Tài Nguyễn Văn Hồng, Giải
nghĩa kinh thiên đạo và thế đạo, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tòa Thánh Tây Ninh,
1991
10. Lê
Tấn Tài, Tinh Thần Tam
Giáo Đạo Cao Đài trong bối cảnh toàn cầu hóa, tập san Đồng Nai & Cửu Long,
số 1, 2007
11. Lê
Tấn Tài, Tinh Thần Tam
Giáo Đạo Cao Đài trong bối cảnh toàn cầu hóa, tập san Đồng Nai & Cửu Long,
số 2, 2008
bài rất hay
Trả lờiXóa