THI TIÊN LÝ BẠCH
Năm Thiên Bảo thứ ba đời Đường Huyền Tông (744), Lý Bạch vì hạ câu
"Khả lân Phi Yến ỷ tân trang 可憐飛燕倚新妝" trong bài thứ 2 của 3 bài Thanh
Bình Điệu, nên bị Thái Úy Cao Lực Sĩ dèm pha là Lý đã miệt thị Dương Qúy Phi. Cuối cùng Lý đành phải từ quan đi ngao du tứ hải.
Trên bước đường phiêu du khắp các vùng giang nam giang bắc để uống hết
rượu ngon trong thiên hạ, đôi lúc Lý cũng chạnh lòng nhớ lại thuở vàng
son và cuộc sống xa hoa lãng mạn một thời ở đất Trường an mà viết nên những dòng thơ đượm tình ướt át sau đây; Chúng ta cùng đọc lại 3 bài thơ cổ phong "Trường Tương Tư" của Thi Tiên sáng tác trong khoảng thời gian nầy nhé !
長相思 (其一) TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ I)
長相思,在長安。 Trường tương tư, Tại Trường an.
絡緯秋啼金井闌, Lạc vĩ thu đề kim tỉnh lan.
微霜悽悽簟色寒。 Vi sương thê thê điệm sắc hàn.
孤燈不明思欲絕, Cô đăng bất minh tư dục tuyệt,
卷帷望月空長嘆。 Quyển vi vọng nguyệt không trường thán.
美人如花隔雲端。 Mỹ nhân như hoa cách vân đoan.
上有青冥之高天, Thượng hữu thanh minh chi cao thiên,
下有淥水之波瀾。 Hạ hữu lục thủy chi ba lan.
天長路遠魂飛苦, Thiên trường địa viễn hồn phi khổ,
夢魂不到關山難。 Mộng hồn bất đáo quan san nan.
長相思,摧心肝。 Trường tương tư, thôi tâm can !
李白 Lý Bạch
* Chú thích :
- Trường Tương Tư 長相思 : có nghĩa là "Nhớ thương nhau dai dẳng", nhớ cả ngày lẫn đêm không lúc nào nguôi.
- Lạc Vĩ 絡緯 : Con Bù cào, châu chấu. Chỉ Côn trùng kêu trong đêm thu.
- Đề 啼 : là Khóc, là Gáy, là Kêu.
- Kim Tỉnh Lan 金井闌 : là Cái khung miệng giếng nước đẹp đẽ.
- Thê Thê 悽悽 : là Thê lương lạnh lẽo; là lạnh lùng hiu hắt.
- Điệm 簟 : là chiếc chiếu được đan bằng tre cói.
- Bất Minh 不明 là Không sáng; có dị bản là "Bất Miên 不眠" là Không ngủ.
- Thanh Minh 青冥 : Chỉ Bầu trời xanh thẳm.
- Cao Thiên 高天 : là Trời cao, dị bản là "Trường Thiên 長天"là Trời dài rộng.
- Lục 淥 : Nước trong vắt.
- Quan San Nan 關山難 : Quan ải và núi non cách trở khó vượt qua.
- Thôi 摧 : có bộ Thủ 扌bên trái nên có nghĩa là xô, là Đẩy. THÔI TÂM
CAN 摧心肝 là Gan tim bị xô đẩy; ý nói Trong lòng như bị dày xéo nát tan;
Lòng đau như bị ai xéo ai dần.
* Nghĩa bài thơ :
Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài I)
Ngày đêm nhớ thương nhau dai dẳng, nhớ thương người ở tại đất
Trường An, côn trùng kêu thu ra rả bên bờ giếng đẹp. Sương thu lành lạnh
nhe rơi làm cho đệm chiếu cũng tỏa hơi lạnh lẽo. Dưới ngọn
đèn cô lẻ chập chờn càng làm tăng thêm nỗi niềm thương nhớ, cuốn rèm
lên để nhìn thấy ánh trăng sáng bên song cửa mà buông tiếng thở dài.
Người đẹp như hoa đang cách trở bởi những tầng mây bạc, trên thì trời
cao lồng lộng mênh mông, dưới thì có làn nước trong đang chập chờn gợn
sóng. Trời cao đất rộng nỗi lòng khó thể bay xa; Mộng hồn cũng khó bề
vượt qua muôn ngàn quan san cách trở. Trường tương tư, thương nhớ ngày
đêm khiến cho lòng đau như cắt.
* Diễn Nôm :
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
Đêm ngày tưởng nhớ đến ai,
Nhớ người yêu dấu bên trời Trường an.
Côn trùng ri rỉ giếng vàng,
Hơi thu sương lạnh lạnh tràn chiếu chăn.
Đèn côi thương nhớ khôn ngăn,
Cuốn rèm để lọt ánh trăng thở dài.
Như hoa người đẹp bên trời,
Trời xanh thăm thẳm bồi hồi trên cao.
Dưới dòng nước cuốn ba đào,
Trời cao đất rộng lối nào tìm nhau.
Quan san cách trở lòng đau,
Nhớ thương thương nhớ dạt dào khôn nguôi.
Ruột gan đà héo cả rồi !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
長相思 (其二) TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ II)
日色慾盡花含煙, Nhật sắc dục tận hoa hàm yên,
月明如素愁不眠。 Nguyệt minh như tố sầu bất miên.
趙瑟初停鳳凰柱, Triệu sắt sơ đình phụng hoàng trụ,
蜀琴欲奏鴛鴦弦。 Thục cầm dục tấu uyên ương huyền.
此曲有意無人傳, Thử khúc hữu ý vô nhân truyền,
願隨春風寄燕然。 Nguyện tùy xuân phong ký Yên Nhiên.
憶君迢迢隔青天。 Ức quân điều điều cách thanh thiên.
昔時橫波目, Tích thời hoành ba mục,
今作流淚泉。 Kim tác lưu lệ tuyền.
不信妾腸斷, Bất tín thiếp trường đoạn,
歸來看取明鏡前。 Quy lai khán thủ minh kính tiền.
李白 Lý Bạch
* Chú thích :
- Như Tố 如素 : TỐ là màu trắng tinh khiết của lụa; Dị bản là Dục Tố 欲素 đều cùng có nghĩa là : Trắng tinh như lụa bạch.
- Triệu Sắt 趙瑟 : Một loại đàn xưa mà người nước Triệu thường đàn.
- Thục Cầm 蜀琴 : Một loại đàn cầm tôn qúy của nước Thục ngày xưa.
- Yên Nhiên 燕然 : Tên của ngọn núi Hàng Ái Sơn nằm trong nước Cộng Hòa
Mông Cổ hiện nay; Ở đây dùng để chỉ vùng biên tái xa xôi ở phía bắc
Trung Hoa.
-
Hoành Ba 橫波 : HOÀNH là ngang; BA là Sóng. HOÀNH BA đi liền nhau để chỉ
"Sóng mắt liếc ngang liếc xéo". Vì lễ giáo các cô gái ngày xưa ít khi
dám nhìn thẳng ai mà chỉ liếc trộm nhìn trộm mà thôi.
- Lưu Lệ Tuyền 流淚泉 : LỆ TUYỀN là Suối lệ; LƯU LỆ TUYỀN là Suối lệ
tuôn chảy, chỉ sầu thương buồn khổ đến nỗi khóc mãi không thôi.
* Nghĩa bài thơ :
Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài II)
Ánh nắng yếu ớt làm cho những cánh hoa như đang ngậm sương khói mơ
màng. Ánh trăng sáng trắng tinh khiết như những giải lụa bạch, lòng sầu
nên không ngủ được. Mới vừa dứt trục phụng hoàng trên cây đờn của nước
Triệu, lại bấm dây uyên ương của cây đàn cầm trên đất Thục. Tiếc thay
các khúc điệu tuy có ý nhưng lại không có người để truyền đạt. Những
mong nó sẽ theo gió xuân mà bay đến vùng Yên Nhiên ngoài tái bắc. Nhớ
thương người xa diệu vợi ở tận phía trời xanh. Đôi mắt liếc long lanh
của ngày xưa giờ đã trở thành nguồn suối lệ chảy mãi không thôi; Nếu như
còn nghi ngờ về nỗi nhớ thương đến đoạn trường của thiếp, thì hãy về
đây mà ngắm dung nhan tiều tụy võ vàng của thiếp trong đài gương kia kìa
!
* Diễn Nôm :
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ II)
Nắng chiều hoa nhạt khói sương,
Sáng trăng khó ngủ sầu thương vô chừng.
Phụng hoàng Triệu sắt vừa ngưng,
Thục cầm đã tấu dây chùn uyên ương.
Khúc xa khó đến người thương,
Thoảng bay theo gió đến miền Yên nhiên.
Nhớ người diệu vợi sơn xuyên,
Khi xưa mắt biếc đưa duyên thẹn thùa.
Nay thành suối lệ như mưa,
Lòng sầu ruột thắt người xưa tỏ tường ?
Má hồng đã nhạt đài gương.
Chàng về sẽ thấy xót thương dáng gầy !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
長相思 (其三) TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ III)
美人在時花滿堂, Mỹ nhân tại thời hoa mãn đường,
美人去後空餘牀。 Mỹ nhân khứ hậu không dư sàng.
牀中繡被卷不寢, Sàng trung tú bị quyển bất tẩm,
至今三載聞餘香。 Chí kim tam tải văn dư hương.
香亦竟不滅, Hương diệc cánh bất diệt,
人亦竟不來。 Nhân diệc cánh bất lai.
相思黃葉落, Tương tư hoàng diệp lạc,
白露點青苔。 Bạch lộ điểm thanh đài !
李白 Lý Bạch
* Chú thích :
- Tú Bị 繡被 : Tấm chăn đắp có thêu hoa đẹp đẽ.
- Quyển Bất Tẩm 卷不寢 : Cuốn để đó không ngủ; dị bản là CÁNH BẤT TẨM 更不卷 nhấn mạnh hơn là "Không có ai ngủ cả".
- Văn 聞 : là chữ Hội Ý gồm có bộ MÔN 門 là Cửa, ở giữa có bộ NHĨ 耳 là
Lổ tai, có nghĩa "Đưa lổ tai ra cửa " để NGHE ngóng; nên VĂN 聞 nghĩa gốc
là NGHE; nghĩa phát sinh là NGỬI. Vì thế VĂN DƯ HƯƠNG 聞餘香 là "Ngửi được
mùi thơm còn rơi rớt lại". Dị bản là DO VĂN HƯƠNG 猶聞香 là Còn ngửi thấy
mùi thơm.
- Lạc
落 : là Rớt, Rơi, Rụng; HOÀNG DIỆP LẠC 黃葉落 là Lá vàng rơi; dị bản là
HOÀNG DIỆP TẬN 黃葉盡 là "Lá vàng rơi đến hết, đến tận cùng".
- Điểm 點 : là Chấm, là Chấm phá. dị bản là THẤP 濕 là Ướt, làm cho ướt.
* Nghĩa bài thơ :
Nhớ Thương Nhau Dai Dẳng (Bài III)
Khi người đẹp còn ở nơi đây thì như có hoa tươi thơm tho đầy cả
phòng; Khi người đẹp đi rồi thì chỉ còn trơ lại chiếc giường không lạnh
lẽo. Trên giường chiếc chăn thêu hoa đẹp đẽ cuốn để đó không ai đắp cả,
nhưng đến nay đã ba năm vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi thơm. Mùi thơm
lâu ngày vẫn còn đó không phai; Người đi lâu ngày vẫn còn vắng bóng chưa
về. Nhớ thương nhau dai dẵng như lá vàng rụng suốt mùa thu và nên thơ
như những hạt sương trắng chấm phá trên thảm rêu xanh.
* Diễn Nôm :
TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ III)
Mỹ nhân còn đó ngát hoa hương,
Mỹ nhân đi rồi trống vắng giường.
Trên giường chăn bông chẳng ai đắp,
Chốc đã ba năm còn thoảng hương.
Hương mãi mai không dứt,
Người biền biệt chẳng về.
Tương tư lá vàng rụng ,
Sương trắng rêu xanh dạ ủ ê !
Lục bát :
Người còn phòng ngát hương hoa,
Người đi phòng vắng giường ngà trống không.
Chăn thêu cuốn chẳng ai nằm,
Đã ba năm lẻ vẫn còn thoảng hương.
Mùi hương chẳng dứt mãi còn,
Người đi biền biệt mõi mòn ngóng trông.
Tương tư lá rụng đầy sân,
Sương đêm nhẹ điểm trắng ngần rêu xanh !
Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
Hẹn bài viết tới :
Chùm thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (3)
chùm thơ này rất hay
Trả lờiXóa